VỊNH HẠ LONG - DI SẢN THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI
Vịnh Hạ Long nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh, cách thủ đô Hà Nội 165km. Đây là vùng biển đảo được xác định trong tọa độ từ 106056’ đến 107037’ kinh độ Đông và 20043’ đến 21009’ vĩ độ Bắc với diện tích 1.553km2 bao gồm 1.969 hòn đảo, trong đó 90% là đảo đá vôi. Phía Bắc và Tây Bắc kéo dài từ thị xã Quảng Yên, qua thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả đến hết phần biển đảo huyện Vân Đồn; phía Đông Nam và phía Nam giáp bờ Tây vịnh Bắc Bộ, phía Tây Nam giáp đảo Cát Bà (Hải Phòng). Vịnh Hạ Long bao gồm cả vịnh Bái Tử Long, vịnh Bái Tử Long có giá trị tương đồng với khu Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long về cảnh quan, địa chất, địa mạo, đa dạng sinh học và văn hóa lịch sử.
Vùng đệm của Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long là dải bao quanh khu vực bảo vệ tuyệt đối, theo hướng Tây - Tây Bắc và Bắc - Đông Bắc, được xác định bởi phía bờ Vịnh dọc theo quốc lộ 18A, kể từ điểm rẽ vào đảo Tuần Châu (Thành phố Hạ Long) đến cây số 11 (phường Quang Hanh, thành phố Cẩm Phả). Chiều rộng khu đệm từ 5 - 7km tính từ đường 18A ra biển, phạm vi xê dịch từ 1 - 2 km.
Ngày 17/12/1994, trong Kỳ họp thứ 18 tại Phuket, Thái Lan, ủy ban Di sản Thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long vào danh mục Di sản Thiên nhiên thế giới với giá trị nổi bật toàn cầu về cảnh quan tự nhiên. Khu Di sản thế giới được UNESCO công nhận có diện tích 434km2, bao gồm 775 hòn đảo trong đó có 411 hòn đảo đã được đặt tên. Đây là nơi tập trung rất nhiều đảo đá hang động và bãi tắm đẹp nổi tiếng, được giới hạn bởi ba điểm: đảo Đầu Gỗ (phía Tây), đảo Đầu Bê (phía Nam), đảo Cống Tây (phía Đông). Năm 2000, tại kỳ họp lần thứ 24 ở thành phố Cairns, Queensland, Australia, Ủy ban Di sản Thế giới một lần nữa đã công nhận vịnh Hạ Long là Di sản Thế giới lần thứ 2 với giá trị nổi bật toàn cầu về địa chất.
Cả hai lần công nhận trên đều là sự công nhận đầu tiên của UNESCO đối với di sản thiên nhiên thế giới ở Việt Nam. Không chỉ là tài sản chung của toàn nhân loại, ngay từ năm 1962 vịnh Hạ Long đã được Nhà nước Việt Nam xếp hạng là Di tích danh thắng cấp quốc gia; năm 2009 là Di tích quốc gia đặc biệt; là 1 trong 39 thành viên vịnh đẹp nhất thế giới. Năm 2011 vượt qua 261 kỳ quan nổi tiếng trên toàn thế giới, vịnh Hạ Long đã được bạn bè quốc tế ủng hộ bầu chọn là 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới.
Hạ Long có nghĩa là “Rồng xuống”, từ trước thế kỷ XIX tên vịnh Hạ Long chưa được ghi chép trong thư tịch cổ nước ta, mà vùng biển này được biết đến với những tên Lục Châu, Lục Thủy, An Bang, An Quảng, Hải Đông, Hoa Phong, Nghiêu Phong …. Mãi đến cuối thế kỷ XIX tên vịnh Hạ Long mới xuất hiện trên bản đồ hàng hải của Pháp vẽ về vịnh Bắc Bộ và trên một số bài bằng chữ tiếng Pháp, chữ tiếng Việt.
Trên tờ “tin tức Hải Phòng” xuất bản bằng tiếng Pháp đã đưa tin: “Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ Long”. Câu chuyện được tóm tắt như sau: Năm 1898, viên thiếu úy Lagơrêdin, thuyền trưởng tàu Avalăngsơ đã gặp một đôi rắn biển khổng lồ 3 lần trên vịnh Hạ Long. Không chỉ viên thiếu úy mà có rất nhiều thủy thủ khác trên tàu cùng chứng kiến. Người Châu Âu liên tưởng, con vật này giống con rồng trong trí tưởng tượng của người Châu Á. Phải chăng chính vì sự xuất hiện con vật lạ được mệnh danh là rồng mà vùng biển này được mang tên là vịnh Hạ Long?
Tuy nhiên, theo huyền thoại xưa tên Hạ Long được bắt nguồn với câu chuyện về đàn rồng xuống giúp dân Việt đánh giặc ngoại xâm:
“Ngày xưa, khi người Việt mới lập nước, trong một lần nước Việt bị giặc ngoại xâm, trời sai rồng mẹ mang theo một đàn rồng con xuống giúp người Việt đánh giặc. Khi thuyền giặc từ biển cả ào ạt tấn công vào bờ thì đàn rồng cũng hạ giới. Đàn rồng lập tức phun ra vô số châu ngọc, những châu ngọc ấy thoắt biến thành muôn vàn đảo đá sừng sững, liên kết lại như bức tường thành vững chãi, bất ngờ chặn bước tiến quân giặc. Thuyền giặc đang lao nhanh bị chặn lại đột ngột đâm vào các đảo đá, đâm vào nhau vỡ tan tành. Sau khi giặc tan, rồng mẹ và rồng con không trở về trời, mà ở lại hạ giới - nơi vừa diễn ra trận chiến đấu. Chỗ rồng mẹ xuống là Hạ Long, nơi rồng con xuống là Bái Tử Long. Đuôi của đàn rồng quẫy lên trắng xóa là Long Vĩ ( tức bán đảo Trà Cổ ngày nay)”.
Câu chuyện dân gian gắn liền với quan niệm về nguồn gốc của dân tộc Việt là “Con Rồng, cháu Tiên”. Rồng, Tiên chính là sức mạnh truyền thống của dân tộc đã được biểu tượng hoá và có lẽ người đặt cho vùng biển đảo cái tên thơ mộng ấy không ai khác ngoài dân gian nơi đây. Ngày nay, nhiều đảo núi trong Vịnh Hạ Long vẫn mang tên Rồng như: Đầu Rồng, Mắt Rồng, Hòn Rồng, Cái Rồng, hay đảo Long Châu, đảo Bạch Long Vĩ.
Vịnh Hạ Long có khí hậu cơ bản là nhiệt đới, nóng ẩm, chia làm 2 mùa chính và 2 mùa chuyển tiếp: Mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Mùa hè từ tháng 5 đến tháng 9. Hai mùa chuyển tiếp: Mùa xuân vào tháng 4 và mùa thu vào tháng 10 có khí hậu mát mẻ ôn hòa. Mùa hè có nhiệt độ trung bình 26oC - 27oC. Mùa đông có nhiệt độ trung bình 15oC - 20oC. Nhiệt độ trung bình năm 18oC - 19oC.
Vịnh Hạ Long có lượng mưa trung bình năm từ 2.000mm - 2.200mm. Độ mặn của nước biển chia làm 2 mùa tương ứng: mùa mưa đạt 21 - 22‰, mùa khô đạt 32 - 33‰. Địa hình đáy Vịnh tương đối bằng phẳng, với độ sâu trung bình 5 - 10m. Do có một hệ thống đảo phía ngoài che chắn nên sóng ở vịnh Hạ Long tương đối nhỏ, ở đây có chế độ nhật triều thuần nhất với độ lớn từ 3,5m - 4m, triều thấp vào các tháng 3, 4, 8 và 9, triều cao vào các tháng 1, 6, 7 và 12.
Vịnh Hạ Long là dạng địa hình đảo xen lẫn các trũng biển, các vùng bãi triều có sú vẹt mọc và các đảo đá vôi vách dựng đứng rất tương phản nhau. Các đảo của Vịnh Hạ Long có độ cao khác nhau (phổ biến từ 50 đến 200 m), chủ yếu là các đảo đá vôi (trên 90%) tập trung ở khu vực Hạ Long và các đảo phiến thạch tập trung ở khu vực Cẩm Phả. Những đảo đất của Vịnh Hạ Long có người và động vật sinh sống, có thảm thực vật trù phú.
Giá trị thẩm mỹ của vịnh Hạ Long
Vịnh Hạ Long là một tác phẩm điêu khắc hùng vĩ của thiên nhiên. Từ xưa đến nay, Hạ Long đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nghệ sỹ. Một vùng biển nước trong xanh, phẳng lặng được điểm xuyết bởi vô vàn những hòn đảo lớn nhỏ khi quần tụ, lúc rải rác với muôn hình, muôn vẻ. Ngắm nhìn Hạ Long, người ta có cảm giác như ngắm một tác phẩm tạo hình kỳ vĩ nhưng chỉ với hai chất liệu đơn giản: Đá và Nước. Cảnh đẹp Hạ Long luôn thay đổi theo góc nhìn, thời gian và tâm trạng của người ngoạn cảnh.
Từ bờ trông ra, những hòn đảo đá như bức tường thành vững chãi ngăn đất liền với biển khơi, nhưng khi đến gần, bức tường ấy mở ra nhường lối, và đảo đá lại hiện ra, gần, xa thấp thoáng. Cứ thế, Hạ Long luôn cuốn hút người ta mê mải kiếm tìm và khám phá.
Đi giữa Hạ Long với muôn nghìn đảo đá, người ta dễ dàng tìm thấy những nét phác thảo vạn vật của tạo hoá. Hai chú gà hướng mỏ vào nhau như đang âu yếm, tình tự (hòn Trống Mái); chú đại bàng đậu trên mỏm đá rình mồi (hòn Đại Bàng) hay ông già đang ngồi câu cá (hòn Lã Vọng). Nhưng khi thuyền qua, ngoảnh đầu lại, những hình ảnh ấy thoắt biến mất, làm bất ngờ và bối rối khách thăm quan.
Cảnh đẹp Hạ Long không chỉ phô bày ở dáng núi, sắc trời, những hòn đảo đá cũng chứa đựng trong lòng những tác phẩm điêu khắc tinh xảo, độc đáo, đó là hệ thống hang động vô cùng phong phú. Mỗi hang động có một vẻ đẹp khác nhau tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn lạ lùng. Động Thiên Cung chau chuốt, lộng lẫy như được chạm khắc từ pha lê; hang Đầu Gỗ được mệnh danh là "động của các kỳ quan" với kiến trúc khỏe khoắn và hoành tráng; hang Sửng Sốt như mở ra một thế giới cổ tích, thần thoại. Nhưng nếu chỉ là một tạo tác thuần túy tự nhiên, Hạ Long không hấp dẫn đến thế, cũng không đủ thuyết phục 100% thành viên các nước trong Ủy ban Di sản thế giới.
Hạ Long - vùng thiên nhiên duyên dáng, thơ mộng ấy còn là một thế giới có tâm hồn, có lịch sử, có buồn vui, hạnh phúc. Đến nơi đây, thiên nhiên thơ mộng cũng chất chứa nội tâm, cũng khát khao tình yêu đến cháy bỏng: ". .Hạ Long, Bái Tử Long - rồng đã khuất rồi chỉ còn có đá. Những đêm trăng đá suy nghĩ như người. Khi xuân đến, đá động lòng thương nhớ. Khi hè gọi đá xôn xao trong dạ đá." (Chế Lan Viên: Vùng mỏ vùng thơ). Và vẻ đẹp của Hạ Long còn được nhân lên gấp bội vì nó mang trong mình những giọt mồ hôi, nụ cười, nước mắt của những người ngư dân, công nhân lao động cần cù, sáng tạo:
".. .Sương mờ xanh, Hạ Long còn giá lạnh
Nhưng mồ hôi mưa xối xả lưng trần
Tay cần trục theo tay người hối hả
Chưa kịp nhìn trời nước đã sang xuân. ."
(Nguyễn Viết Lãm: Hạ Long đêm bốc vác)
Những con người ấy luôn yêu đời, yêu lao động, yêu Hạ Long và cùng nhau góp sức làm cho Hạ Long đẹp mãi.
Giá trị địa chất của vịnh Hạ Long
Nếu giá trị cảnh quan tự nhiên tuyệt vời đã tôn vinh Di sản Vịnh Hạ Long, phản ánh hình thể và màu sắc của một viên ngọc quý, thì giá trị địa chất cần được xem như là cấu trúc và chất liệu tạo nên viên ngọc ấy. Dải ven bờ và trong lòng Vịnh Hạ Long chứa đựng nhiều hệ tầng trầm tích thành phần cacbonat và lục nguyên với nhiều di tích cổ sinh vật dưới dạng hoá thạch, trong đó có các ngành, động thực vật đã bị biến mất trên trái đất. Đó là những trang sử đá ghi lại những biến cố vĩ đại của quá trình địa chất và tiến hoá của sự sống. Lịch sử địa chất lâu dài của Vịnh Hạ Long được biết ít nhất trên 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau, với nhiền lần tạo sơn - biển thoái, sụt chìm - biển tiến. Khu vực Vịnh Hạ Long đã từng là biển sâu vào các kỷ Odovic - Silua (khoảng 500 - 410 triệu năm trước) là biển nông vào các kỷ Cacbon - Pecmi (khoảng 340 - 250 triệu năm trước), biển ven bờ vào cuối kỷ Paleogen - đầu Neogen (khoảng 26 - 20 triệu năm trước) và trải qua một số lần biển lấn trong kỷ Nhân sinh (khoảng 2 triệu năm qua). Xen kẽ với các thời kỳ biển tồn tại là các thời kỳ lục địa.
Vịnh Hạ Long đã trải qua những thời kỳ cổ địa lý rất đặc biệt. Kỷ Cacbon (340 - 285 triệu năm trước) là thời gian nóng ẩm của trái đất, phát triển môi trường đầm lầy thực vật thuận lợi cho hình thành các bể than đá khổng lồ ở châu Âu thì ở Vịnh Hạ Long lại là vùng biển nông, khí hậu khô nóng để hình thành nên tầng đá vôi dày. Trái lại, vào kỷ Trias (240 - 195 triệu năm trước) khi trái đất nói chung, châu Âu nói riêng có khí hậu khô nóng thì khu vực Vịnh Hạ Long là những đầm lầy ẩm ướt với những cánh rừng tuế, dương xỉ khổng lồ tích tụ nhiều thế hệ.
Vịnh Hạ Long ngày nay mới được hình thành trong 7 - 8 nghìn năm qua. Nhưng để có Vịnh, đã phải có một biển cổ tích tụ tầng đá vôi dày trên nghìn mét trong khoảng 340 - 240 triệu năm trước, một thời kỳ xâm thực Karst kéo dài trên 20 triệu năm trong môi trường lục địa kỷ Neogen và Nhân sinh, và phải có một biển tiến hành tinh liên quan tới trái đất ấm lên - băng tan trong hơn vạn năm qua. Do vậy, Vịnh Hạ Long mang nhiều giá trị quý giá cho khoa học địa chất kỷ Nhân sinh và địa chất biển. Các bậc thềm biển nâng cao, các bề mặt đồng bằng phân bậc nằm chìm dưới đáy Vịnh, các dòng sông cổ ngập chìm, hang động, trầm tích hang động, các ngấn biển cổ và bệ hàu hà nằm cao trên vách đá là kho tư liệu quý giá nghiên cứu biến động mực nước biển cổ và hiện đại, cũng như ảnh hưởng của nó tới con người từ các nền văn hoá khảo cổ xa xưa như Soi Nhụ, Tiền Hạ Long và Hạ Long rồi cho đến ngày nay.
Vịnh Hạ Long là mẫu hình tiêu biểu về một Vịnh biển tạo nên không phải từ các mũi nhô, mà từ hệ thống đảo chắn. Đó là Vịnh thuỷ triều, nhật triều đều biên độ lớn điển hình nhất thế giới, một kiểu bờ ăn mòn hoá học tiêu biểu và đặc sắc. Vịnh Hạ Long còn là mẫu hình tuyệt vời về Karst trưởng thành trong điều kiện nhiệt đới ẩm. Vịnh có một quá trình tiến hoá Karst đầy đủ trải qua 20 triệu năm nhờ sự kết hợp đồng thời giữa các yếu tố như tầng đá vôi rất dày, khí hậu nóng ẩm và quá trình nâng kiến tạo chậm chạp trên tổng thể. Ở đây có đủ tất cả các cấp bậc của địa hình Karst, các hệ thống hang động cổ, hang động đang hoạt động và cả hang động tạo ra do quá trình biển, rất phổ biến kiểu địa hình Karst kiểu Fengling và Fengcong. Kiểu mẫu Fengling gồm các cụm đồi đá vôi hình chóp nằm kề nhau, điển hình là ở khu đảo Bồ Hòn và Đầu Bê.
Các chóp và tháp bị biển tràn ngập cánh đồng Karst, tách rời nhau tạo lên cảnh quan vô cùng đặc sắc. Biển còn làm chìm các phễu Karst, biến chúng thành những hồ nước mặn, như cụm hồ Ba Hầm nằm sâu trong lòng đảo Đầu Bê. Biển cũng tạo lên những ngấn vách, có khi ăn sâu thành hàm ếch, hang luồn, tô vẽ thêm dáng vẻ kỳ vĩ cho cảnh quan Karst.
Đánh giá của IUCN về giá trị địa chất Vịnh Hạ Long như sau: "…Vịnh Hạ Long là một điển hình về biển gắn với cảnh quan tháp karst và là một trong những khu vực quan trọng nhất thế giới về Karst fengcong và fengling. Mặc dù di sản có những nét đặc trưng địa mạo giống với nhiều vùng khác nhưng rõ ràng, nó vẫn hơn hẳn so với bất kỳ khu vực nào trên thế giới. Hơn thế nữa, khu Di sản Hạ Long thể hiện đầy đủ tính nguyên vẹn về các quá trình địa chất ở quy mô lớn. Mặc dù loài người đã cư trú ở khu vực này rất lâu, nhưng điều này không làm mất đi mà vẫn lưu giữ được đặc tính tự nhiên vốn có. Vịnh Hạ Long có thể được coi như là một Di sản có tháp Karst đá vôi rộng lớn và phát triển tốt nhất thế giới…".
Khi nghiên cứu về địa chất vùng đá vôi Karst Vịnh Hạ Long, giáo sư Tony Waltham - Viện địa lý Hoàng gia Anh - đã đánh giá rất cao giá trị địa chất, địa mạo khu vực này. Báo cáo của ông có đoạn viết: "…Vịnh Hạ Long là một điển hình phát triển lớn nhất và mạnh nhất trên thế giới về cảnh quan tháp Karst đã bị biển làm chìm ngập. Vùng Di sản này mang đặc trưng của cả hai vùng Karst fengling và fengcong. Nó có thể so sánh với các tháp Karst thuộc vùng Yangshua (Quế Lâm) tại Quảng Tây, Trung Quốc, nhưng Vịnh Hạ Long thì lại ở trên biển…". "…Không thể nói gì hơn, ta có thể khẳng định rằng: Vịnh Hạ Long là một thắng cảnh Karst mang ý nghĩa toàn cầu với nền tảng cơ bản là khoa học địa chất. Hạ Long bao gồm tất cả địa hình dạng fengcong, fengling, các hang động vẫn đang trong quá trình phát triển. Cùng với giá trị về mặt cảnh quan, giá trị về địa chất học của Hạ Long cần phải được bảo tồn vì lợi ích của loài người…”.
Quá trình hình thành hang động trên vịnh Hạ Long:
Thời kỳ Pleixtoxen từ 2,58 triệu năm đến 11,7 ngàn năm cách ngày nay là thời gian chủ yếu tạo nên hệ thống hang động nổi tiếng trên Vịnh Hạ Long. Chúng thường tập trung ở các khoảng độ cao 10 -15m; 20 - 30m; và 40 - 60m. Mỗi hệ độ cao hang động đánh dấu một thời kỳ ổn định kiến tạo và ứng với một mực xâm thực cơ sở nhất định. Sau đó đáy hang, động được nâng cao do vận động kiến tạo khu vực.
Sự xâm thực của nước mưa và mực nước ngầm địa phương duy trì lâu dài do ổn định kiến tạo sẽ là cơ hội phát triển hệ thống hang động cao và sâu rộng. Ban đầu nước mưa chảy theo những khe nứt vỡ của đá vôi được tạo ra do chuyển động kiến tạo phát sinh đứt gẫy. Quá trình ăn mòn hoá học do nước mưa ngày càng mở rộng các khoảng trống khe nứt để hình thành nên hang động. Các hang động sâu rộng đều có liên quan đến các con suối ngầm trong lòng núi đá vôi.
Quá trình hình thành một hang động kéo dài suốt từ điểm khởi đầu ứng với một sự tồn tại của một mực xâm thực cơ sở cho đến tận ngày nay. Vào các thời kỳ băng hà trong Pleixtoxen, khu vực Hạ Long mát lạnh, mưa nhiều nên thuận lợi cho hoà tan đá vôi tạo hang. So với tuổi của hang, tuổi của thạch nhũ trẻ hơn nhiều bởi chúng được hình thành vào thời kỳ Holoxen ấm áp về sau (cách đây khoảng 11.700 - nay).
Quá trình hoà tan đá vôi tạo hang và thạch nhũ : CaCO3 + CO2 + H2O ↔ Ca(HCO3). Đây là phương trình thuận nghịch. Chiều thuận là quá trình hoà tan đá vôi tạo bicacbonatcanxi hoà tan và phân ly yếu trong môi trường nước. Chiều nghịch là quá trình kết tủa CaCO3 để tạo thành măng đá (mọc từ dưới lên) và nhũ đá (rủ từ trên xuống). Khi nhiệt độ mát lạnh, thuận lợi cho phản ứng thuận (tạo hang động), khi nhiệt độ cao thuận lợi cho phản ứng chiều nghịch (tạo thành thạch nhũ).
Hang động Vịnh Hạ Long rất phong phú, đa dạng và thuộc về ba nhóm chính. Nhóm thứ nhất là di tích các hang ngầm cổ, tiêu biểu là hang Sửng Sốt - động Tam Cung, động Lâu Đài, động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, Thiên Long,v.v. . Nhóm thứ hai là các hang nền Kartơ tiêu biểu là Trinh Nữ, Bồ Nâu, Tiên Ông, Hang Trống v.v. . Nhóm thứ ba là những hang hàm ếch biển, tiêu biểu là ba hang thông ở khu hồ Ba Hầm, Hang Luồn v.v. . Kartơ Vịnh Hạ Long có ý nghĩa toàn cầu và có tính chất nền tảng cho khoa học địa mạo. Về độ cao, độ dốc và số lượng các tháp đá vôi thì Vịnh Hạ Long đứng sau vùng Yangshu, Quảng Tây, Trung quốc. Nhưng Vịnh Hạ Long lại có thêm quá trình biển ngập và xâm thực biển đã tạo lên những nét mới làm cho địa mạo Kartơ Vịnh Hạ Long trở thành độc nhất vô nhị trên thế giới. Môi trường địa chất còn là nền tảng phát sinh các giá trị khác của Vịnh Hạ Long như đa dạng sinh học, văn hoá khảo cổ - lịch sử và các giá trị nhân văn khác.
Giá trị văn hóa lịch sử của vịnh Hạ Long
Khu vực Vịnh Hạ Long là một trong những cái nôi cư trú của người Việt cổ: với một nền văn hoá huy hoàng có tên: Văn hoá Hạ Long có niên đại cách chúng ta khoảng 18000 - 3500 năm. Văn hoá Hạ Long được phôi thai từ văn hoá Soi Nhụ, kế tiếp là văn hoá Cái Bèo và sau cùng là văn hoá Hạ Long. Mỗi nền văn hoá trên đều có những đặc trưng riêng, phân bố tập trung tại một khu vực độc lập nhưng không hề biệt lập, nó gắn liền với nền Văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn nổi tiếng của dân tộc Việt Nam ta. Văn hoá Hạ Long là một nền văn hoá có vai trò rất quan trọng trong nền văn minh Việt cổ, đặc biệt là giai đoạn văn hoá Hạ Long muộn, bởi qua cửa ngõ Hạ Long, người Việt đã biết làm giàu cho nền văn hoá của mình bằng những giá trị hợp lý và phổ biến của văn minh nhân loại.
Các di chỉ khảo cổ học thời tiền sử Hạ Long đã được phát hiện có mặt hầu hết các nơi trên Vịnh, chứng tỏ một qui mô rộng khắp, thể hiện sự phát triển rực rỡ, liên tục của một nền văn hoá mang đậm sắc thái của cư dân vùng biển đảo, có ý nghĩa quan trọng góp phần vào quá trình hình thành nền văn minh Việt Cổ.
Với vị trí chiến lược quan trọng, ngay từ thế kỷ XII (năm 1149) dưới triều vua Lý Anh Tông, trong khu vực VHL, thương cảng Vân Đồn đã được thành lập. Đây không chỉ là một bến cảng mà là một hệ thống gồm nhiều bến thuyền thương mại trên các đảo quây quần trên vùng vịnh Bái Tử Long. Ngày nay những dấu tích về những bến thuyền cổ còn tìm thấy khá dày đặc, phong phú tại các khu vực đảo Cống Đông, Cống Tây, Vân Hải, Quan Lạn…Hàng vạn mảnh gốm sứ đặc trưng cho các thời kỳ Lý, Trần, Lê, Mạc cùng nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật . Bên cạnh những dấu tích đồ sộ của các thuyền cổ ngày nay chúng ta còn phát hiện nhiều dấu tích của các công trình văn hóa như : đình, chùa, đền, miếu, tháp: chùa Lấm, chùa Trong, chùa Cát và cụm di tích đình, đền, chùa Quan Lạn.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, VHL còn là nơi ghi dấu những chiến công hào hùng của dân tộc từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, đó là: Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán (năm 938), Lê Hoàn đánh thắng quân Tống (năm 981), Trần Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên Mông (năm 1288).
Và lịch sử cũng không quên những chiến công vang dội của quân và dân Quảng Ninh trên vùng VHL qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, góp phần bảo vệ hòa bình cho Tổ quốc. Có những di tích, những sự kiện trở thành bất tử trong lòng mỗi người dân Việt Nam nói chung và Quảng Ninh nói riêng.
Trong kháng chiến chống Pháp: Hang Đúc Tiền nằm ở phía Đông Nam đảo Vạn Gió (trên bản đồ có ký hiệu là hòn 376, dân gian gọi là núi Cánh Quít). Đây là căn cứ của nghĩa quân Đề Hồng, Cai Thái, nghĩa quân lập xưởng đúc súng, đúc tiền để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Ngày 1.5.1930, lá cờ đỏ búa liềm tung bay phấp phới trên đỉnh núi Bài Thơ, đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào đấu tranh cách mạng - của giai cấp công nhân vùng mỏ, góp phần đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp.
Ngày 24.3.1946, Hồ Chủ Tịch hội đàm với cao uỷ Pháp Đác - Giăng - Liơ trên chiến hạm Emin - bec - tanh trên vịnh Hạ Long.
Trong kháng chiến chống Mỹ: Vào đầu những năm 60 của thế kỷ 20, những chuyến tàu không số xuất phát từ khu vực Hạ Long tiến vào Miền Nam mang theo vũ khí, đạn dược….góp phần vào chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước (Tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển).
Vịnh Hạ Long chứng kiến lần tập kích và thất bại đầu tiên bằng không quân của không lực Hoa Kỳ khi chúng mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc ngày 5.8.1964 cùng với sự kiện bắt sống tên giặc lái Mỹ đầu tiên: phi công An-Va-Ret.
Hiện nay, khu vực Vịnh Hạ Long còn có nhiều di tích lịch sử và di chỉ văn hoá như: Đình Quan Lạn, chùa Lấm, đền Bà Men... Đặc biệt người dân vùng biển Hạ Long vẫn lưu giữ được những nét văn hoá truyền thống độc đáo, phong phú từ bao đời. Nó được thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ, lễ hội, kinh nghiệm, phản ánh tâm tư, tình cảm được truyền từ đời này qua đời khác. Đó là các giá trị văn hoá phi vật thể mang đặc trưng của vùng biển như: Hò, vè, hát đám cưới, hát giao duyên, hò biển và nhiều lễ tục truyền thống như: lễ giở mũi thuyền, tục trồng cây nêu….
Những giá trị văn hoá này hiện vẫn là một “cửa ngỏ”, một “mảnh đất tốt” cho các nhà nghiên cứu, những người yêu quý, tôn vinh truyền thống văn hoá dân tộc.
Giá trị đa dạng sinh học
Nếu như giá trị cảnh quan và giá trị địa chất - địa mạo của VHL đã được thế giới khẳng định và nhận được sự mến mộ của hàng triệu du khách thì sự phong phú và tuyệt diệu về đa dạng sinh học của VHL cho đến nay vẫn là một bức màn bí ẩn với nhiều du khách. Với đường bờ biển khúc khuỷu trải dài 125 km, địa hình Vịnh lại bị chia cắt bởi nhiều đảo núi, tạo ra nhiều luồng lạch và bãi triều rộng. Vì thế Hạ Long được đánh giá là nơi chứa đựng trong mình một tiềm năng đa dạng sinh học cao với nhiều hệ sinh thái điển hình của vùng biển nhiệt đới. Đa dạng sinh học VHL thể hiện ở đa dạng về thành phần loài, đa dạng về nguồn gen đặc hữu quý hiếm, đa dạng về hệ sinh thái(HST).
Đến nay đã thống kê được 2949 loài động thực vật sống trong 10 kiểu hệ sinh thái đặc thù của quần đảo đá vôi vùng nhiệt đới: Hệ sinh thái các thảm thực vật trên đảo, Hệ sinh thái rừng ngập mặn, Hệ sinh thái cỏ biển, Hệ sinh thái rạn san hô, Hệ sinh thái vùng triều đáy mềm, Hệ sinh thái vùng triều đáy cứng, Hệ sinh thái bãi triều cát, Hệ sinh thái tùng - áng, Hệ sinh thái vùng ngập nước thường xuyên ven bờ, Hệ sinh thái hang động. Trong đó có 66 loài lưỡng cư - bò sát, 71 loài chim và 53 loài thú.
Hệ sinh thái các thảm thực vật trên đảo: Theo kết quả nghiên cứu mới đây cho thấy VHL có 507 loài, 351 chi thuộc 110 họ thực vật bậc cao có mạch, 21 loài được ghi nhận là quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng và được ghi trong sách đỏ Việt Nam và 17 loài thực vật đặc hữu, đó là: Ngũ gia bì Hạ Long, Cọ Hạ Long, Tuế Hạ Long, Bóng nước Hạ Long, Cầy ri ta một cặp, Cầy ri Hạ Long (Khổ cử đại Hạ Long), Cầy ri hiệp (Khổ cử đại Hiệp), Cầy ri ôn hòa, Song bế Hạ Long, Nô Hạ Long, Sung Hạ Long, Cơm nguội chân, Nhài Hạ Long, An điền Hạ Long, Ngoại mộc tai, Nan ông Hạ Long, Giềng Hạ Long.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn: Khu vực VHL và vùng phụ cận có 30 loài thuộc 23 họ thực vật ngập mặn. Rừng ngập mặn Hạ Long còn đóng vai trò là nơi sinh sống của nhiều loại sinh vật khác, mang năng suất sinh học rất cao. Theo kết quả nghiên cứu cho đến nay đã thống kê được gần 500 loài sinh vật khác nhau, trong đó: 16 loài rong biển, 4 loài cỏ biển, 306 loài động vật đáy, 90 loài cá biển, 5 loài bò sát, 37 loài chim, 12 loài động vật có vú.
Hệ sinh thái thảm cỏ biển: Là nơi định cư của nhiều loài tôm, cua, cá và nguồn giống của chúng, đồng thời đóng vai trò quan trọng việc ổn định nền đáy, xử lý nước thải.
Hệ sinh thái rạn san hô: San hô cứng là nhóm sinh vật chính tạo nên HST rạn san hô trên VHL. Hiện nay có khoảng 102 loài san hô thuộc 11 họ, 32 giống thuộc bộ San hô cứng. Ngoài ra, trong quần xã rạn san hô còn có 180 loài Thực vật phù du, 104 loài Động vật phù du, 129 loài Rong biển, 118 loài Giun đốt, 11 loài Bọt biển, 230 loài Thân mềm, 77 loài Giáp xác, 15 loài Da gai, 155 loài Cá biển. Đây cũng là HST có năng suất sinh học cao, đồng thời là bộ lọc tự nhiên giúp làm sạch môi trường nước. Khu vực tập trung nhiều san hô nhất trên VHL là khu vực Cống Đỏ, Cọc Chèo, Vụng Hà...
Hệ sinh thái vùng triều đáy mềm cửa sông: Các bãi triều thấp đáy mềm phân bố chủ yếu phía trong Vịnh Cửa Lục phía tây vịnh quanh các đảo Tuần Châu, Hoàng Tân xuống đến Phù Long, gồm 2 kiểu: kiểu bãi triều là cát bột, bùn sét tiếp giáp với rừng ngập mặn; kiểu cồn cát, doi cát nổi lên ở phía ngoài cửa sông.
HST vùng thấp triều có môi trường sinh thái phức tạp, biến đổi theo mùa và theo thời gian trong ngày, theo con nước triều khá lớn. Do đó thành phần loài của quần xã sinh vật nghèo hơn so với vùng triều các đảo xa bờ và chia thành 2 nhóm khác nhau: Nhóm sống định cư trên bãi triều bao gồm các loài động vật đáy 150 loài, rong biển 58 loài, cỏ biển 5 loài, cá biển 5 loài; nhóm sống trong tầng nước di cư theo thủy triều bao gồm: thực vật phù du 145 loài, động vật phù du 54 loài, cá biển 74 loài. Trong đó có một số loài có giá trị kinh tế cao như Sò huyết, sò lông, ngao, ngán, sâu đất...
Hệ sinh thái bãi triều rạn đá quanh các đảo: Các bãi triều rạn đá quanh các chân đảo có nền đáy chủ yếu là các vách đá, các ngấn biển, đôi chỗ là những nơi đá cuội, đá tảng trượt từ trên núi xuống diện tích phân bố không lớn (khoảng 30ha). Với 423 loài bao gồm: 129 loài rong biển, khoảng 10 loài san hô, 51 loài giun nhiều tơ, 60 loài ốc, 75 loài 2 mảnh vỏ, 70 loài giáp xác, 12 loài da gai và 2 loài hải miên. Tham gia vào quần xã sinh vật này còn có 2 loài Bò sát, 21 loài chim nước, 3 loài rái cá.
Hệ sinh thái bãi triều cát ven đảo: Các bãi triều cát ven đảo thường nằm trong các hõm đảo hay vùng bãi được che chắn và phía dưới có các ran san hô phát triển. Đặc điểm cơ bản của HST này là nền đáy không ổn định khi bị tác động của sóng và dòng triều nên sự phân bố của các sinh vật không rõ rệt theo từng vùng triều. Vùng cao và trung triều chủ yếu là các loài Cua ma và dã tràng sinh sống. Tại vùng triều thấp thống kê có 32 loài giun nhiều tơ, 22 loài 2 mảnh vỏ, 34 loài ốc, 24 loài giáp xác, 4 loài da gai, tổng cộng đã phát hiện được 116 loài sinh vật trên các bãi triều cát trong vùng.
Hệ sinh thái Tùng - Áng: Áng là hồ chứa nước Karst, nằm giữa các đảo. Tùng là vụng nước luôn có 1 cửa thông ra với Vịnh, tương đối kín, ít sóng. Hệ sinh thái Tùng - Áng là một kiểu hệ sinh thái đặc thù của vùng biển đảo đá vôi , nơi lưu giữ những nguồn gen quý hiếm và độc đáo. Hiện nay trên VHL có 36 áng, 24 tùng có thành phần loài khá đa dạng: 21 loài rong, 37 loài thân mềm, 8 loài giáp xác, 6 loài da gai và một số loài san hô phát triển tạo nên một kiểu sinh cảnh đẹp, hấp dẫn du khách.
Hệ sinh thái vùng ngập nước thường xuyên ven bờ: Hệ sinh thái này bao gồm phần mặt nước có độ sâu 0 - 20m. Đây là một khối nước tương đối đồng nhất nên khu hệ sinh vật bao gồm nhiều nhóm loài khác nhau như: thực vật phù du, động vật phù du, giun tròn, thân mềm, giáp xác, da gai, cá biển. Trong đó rất nhiều loài có giá trị kinh tế cao như cua biển, tôm he, cá vược...
Hệ sinh thái hang động: Môi trường sống trong hang động không đa dạng và tương đối nghèo dinh dưỡng do thiếu ánh sáng, độ ẩm không khí cao, nguồn thức ăn tự nhiên nghèo, nhiệt độ ổn định quanh năm nên cấu trúc quần xã sinh vật nghèo hơn hẳn so với các HST khác ở VHL. Trong đó đã xác định được khoảng trên 20 loài động vật thường xuất hiện trong các hang động bao gồm: động vật có vú 2 loài (dơi và chuột núi), giáp xác và thân mềm 5 loài, 2 loài ốc và các loại di động nhanh như gián, nhện, dế hang. Trong đó 2 loài cá và 6 loài giáp xác được coi là các loại đặc hữu của hang động VHL.
Đa dạng nguồn gen quý hiếm: nguồn gen quý hiếm được thể hiện ở nhiều sinh vật có giá trị khoa học, đặc hữu, kinh tế, dược liệu. Một số nguồn gen quý đã được ghi trong ”Sách đỏ Việt Nam”.
Nguồn gen được ghi trong sách đỏ có 23 loài thực vật, 28 loài động vật (được tìm thấy trong vùng Bái Tử Long - Hạ Long - Cát Bà). Một số nhóm thực vật tiêu biểu như: Chò đãi, lát hoa, re hương, bách bộ đứng, sến mật, ba kích...Động vật tiêu biểu như: ốc anh vũ, con sút, ốc đụn đực, ốc đụn cái, bào ngư hình bầu dục, cá bống bớp, cá ngựa chấm, đồi mồi, vích...
Nguồn gen làm dược liệu: có thể nói rằng cả khu vực Bái Tử Long - Hạ Long - Cát Bà là một kho dược liệu tự nhiên, sơ bộ ước tính khoảng 357 loài cây cỏ và gần 100 động vật có thể làm thuốc được. Ví dụ: rong đại bò trị giun sán; rong mơ chữa biếu cổ; cốt toái bổ chữa bong gân, phong thấp, đau khớp, ù tai, chảy máu chân răng; kinh giới đất trị nhức đầu, cảm cúm, cảm phong...ong đen trị sâu răng, đau cổ họng; bìm bịp chữa đau lưng, suy nhược của tuổi già; xuyên sơn giáp chữa bệnh tắc tia sữa, mụn nhọt, đau nhức xương khớp, đau xương bệnh gút... Nguồn gen là loài đặc hữu: môi trường thiên nhiên của Hạ Long thật độc đáo và đa dạng, đã tạo ra nhiều điều kiện cho sinh vật đặc hữu sinh sống và phát triển, đặc biệt là giới thực vật: Ngũ gia bì Hạ Long. Nguồn gen là sinh vật có giá trị kinh tế cao: Nguồn gen quý hiếm là đặc sản để làm thực phẩm, mỹ nghệ xuất khẩu: họ Bào ngư, họ ốc đụn, họ ốc hương, họ ốc nhảy, họ sò, họ tu hài, họ tôm he, họ cua bơi, họ hải sâm, họ cá song...
Đa dạng sinh học của VHL và vùng phụ cận thuộc loại cao nhất nước và có giá trị to lớn về nhiều mặt. Do đó trách nhiệm của chúng ta là phải bảo vệ đa dạng sinh học và môi trường VHL cho hôm nay và cho muôn đời sau.
Tiềm năng, thế mạnh của vịnh Hạ Long
Tiềm năng du lịch: Với những giá trị đặc biệt to lớn về cảnh quan, địa chất, lịch sử văn hóa và sự phong phú, giàu có về sinh thái, cùng với sự kiện hai lần được công nhận là Di sản TNTG, hiển nhiên, VHL đã hội tụ những điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển ngành kinh tế du lịch. Du lịch VHL rất đa dạng: du lịch ngắm cảnh, du lịch nghỉ dưỡng, tắm biển, du lịch leo núi, du lịch mạo hiểm, du lịch văn hóa…
Đặc biệt du khách còn được trải nghiệm Hạ Long về đêm với các hoạt động như : ngắm trăng, câu mực, thưởng thức đồ uống trên tàu…khi tham gia tour du lịch nghỉ đêm trên vịnh. Đây là loại hình du lịch độc đáo, đặc sắc và đang thu hút được sự tham gia của đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước. Cùng với dịch vụ du lịch như: Hệ thống nhà hàng - khách sạn phục vụ nghỉ ngơi, nghỉ dưỡng. Các sản phẩm du lịch: đồ lưu niệm, ẩm thực địa phương... đã và đang đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ khách tham quan.
Tiềm năng cảng biển và giao thông thủy: Vịnh Hạ Long là một trong những cửa ngõ giao thông chính của miền Bắc Việt Nam.
Đây là vùng vịnh kín, ít sóng và gió. Hệ thống luồng lạch tự nhiên dầy đặc và cửa sông ít bị bồi lắng là điều kiện lý tưởng để xây dựng hệ thống cảng biển, đặc biệt là cảng nước sâu, cho phép xây dựng mô hình phát triển du lịch toàn diện. Cảng Cái Lân, nằm ở phía Bắc thành phố Hạ Long, gần với Cửa Lục (Bến phà Bãi Cháy cũ), là vùng nước sâu, kín gió, nằm liền kề Quốc lộ 18A, thuận lợi việc bốc rót, chuyên chở hàng hóa. Năm 2010, xây dựng hoàn chỉnh cảng Cái Lân, với 7 cầu cảng, công suất hơn 14 triệu tấn cho phép tiếp nhận tàu trọng tải trên 50 vạn tấn…Tuy nhiên, tiềm năng phát triển giao thông cảng biển cũng đặt ra thách thức trong việc bảo vệ môi trường vịnh biển Hạ Long.
Tiềm năng đánh bắt, nuôi trồng hải sản:
Biển Hạ Long chứa đựng nhiều hệ sinh thái phong phú với mức đa dạng sinh học cao, trữ lượng hải sản của vùng rất lớn. Điều kiện tự nhiên thích hợp cho việc nuôi trồng hải sản như: khí hậu, diện tích bãi triều lớn, nước trong, ngư trường ven bờ và ngoài khơi có trữ lượng hải sản cao và đa dạng, cùng nhiều điều kiện thuận lợi khác. Hiện nay việc nuôi cá lồng bè và các loại hải sản trên các bãi triều như: Cá, Tôm, Sá Sùng, Hải Sâm trắng, Bào Ngư, Ngao, Sò Huyết, Tù Hài… đã mang lại giá trị kinh tế cao.
Những điểm tham quan du lịch hấp dẫn trên vịnh Hạ Long:
Đảo Rều: Đảo Rều là một đảo đất nhỏ, xinh đẹp trong tổng số 1969 hòn đảo trên vịnh Hạ Long, cách Cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng hơn 500m. Trước kia, xung quanh đảo có bám nhiều rêu xanh, dân quanh vùng thường gọi là đảo Rêu, sau đọc thành đảo Rều. Tháng 7/2014, tại thành phố Hạ Long, Tập đoàn Vingroup đã tiến hành khởi công xây dựng Khu khách sạn nghỉ dưỡng biển cao cấp tại đảo Rều với tổng diện tích là 49.600 m2, trong đó diện tích đảo là 40.000 m2 và diện tích mặt nước là 9.600 m2. Dự kiến dự án được đầu tư với quy mô chuỗi phòng nghỉ cao cấp, chuỗi nhà hàng ẩm thực đa dạng, khu trung tâm hội nghị quốc tế, khu spa, phòng tập thể thao, khu vui chơi giải trí... Đây là điểm nhấn thu hút, khơi dậy tiềm năng du lịch Tp. Hạ Long nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Đảo Tuần Châu: Là một đảo đất nằm ở phía Tây của Vịnh Hạ Long, cách trung tâm thành phố Hạ Long chừng 10km. Đây là một đảo đất lớn có diện tích khoảng 710 ha, được chia thành 2 khu: khu du lịch và khu dân cư. Từ Thế kỷ thứ XI Tuần Châu đã được xác định nằm ở vị trí quan trọng, giữa cửa ngõ con đường thuỷ Thăng Long - Bạch Đằng - Vân Đồn rất thuận lợi cho giao lưu, buôn bán. Cùng với việc mở cửa thương cảng Vân Đồn, nhà Lý rồi nhà Trần đặt ở đây 1 Đồn Suất Ti Tuần để thu thuế và kiểm soát các thuyền bè qua lại, đồng thời lập ra một đơn vị hành chính cấp Châu do 1 viên Tri Châu cai quản. Để phân biệt Đồn Suất Ti Tuần ở đây với các nơi khác, người ta đã lấy từ cuối của cụm từ Suất Ti Tuần là “Tuần” gắn với tên đơn vị hành chính là “Châu” thành tên Tuần Châu để chỉ hòn đảo này.
Tuần Châu là một trong những điểm cư trú của người tiền sử: Năm 1938, các nhà khảo cổ học tìm thấy trên đảo những di chỉ khảo cổ thuộc giai đoạn muộn của văn hóa Hạ Long cách ngày nay khoảng 3.500 năm đến 2.500 năm (ở xóm Nam, xóm Đông và xóm Kèo). Ngày 30/3/1959, Bác Hồ về thăm cán bộ và nhân dân xã đảo. Thấy hòn đảo xinh đẹp và tiềm năng phát triển nơi đây Bác đã căn dặn: hãy biến Tuần Châu thành “Ngọc Châu”. Trên đảo hiện còn lưu giữ căn nhà nơi Bác đã dừng chân nghỉ ngơi trong những ngày tới thăm đảo.
Trước năm 1997, Tuần Châu chỉ là một xã đảo nghèo trực thuộc thành phố Hạ Long, nhân dân sống chủ yếu bằng nghề chài lưới với các phương tiện đánh bắt thô sơ. Trên đảo không có điện, nước, giao thông bị cách biệt với đất liền, đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của người dân vì thế cũng thiếu thốn. Năm 1998, cuộc sống của người dân Tuần Châu được bắt đầu cải thiện khi Công ty TNHH Âu Lạc đầu tư triển khai dự án con đường nối đảo với quốc lộ 18A dài 2.145 m, rộng 15m với hai làn xe ô tô và vỉa hè cho người đi bộ. Sau khi hoàn thành tuyến đường ra đảo Tuần Châu, công ty Âu Lạc triển khai dự án Khu Du lịch và Giải trí quốc tế Tuần Châu, Hạ Long với tổng diện tích 710 ha. Từ một hòn đảo hoang sơ đến nay đảo Tuần Châu đã nổi tiếng trong và ngoài nước và được coi là điểm đến không thể thiếu của các tour du lịch, với các công trình, dịch vụ đặc sắc như: Câu lạc bộ cá heo, hải cẩu sư tử biển, trình diễn ca múa nhạc thời trang; Rạp xiếc; Câu lạc bộ biểu diễn cá sấu; Bãi tắm nhân tạo dài hơn 4 km; Khu ẩm thực Việt Nam phục vụ cùng lúc hơn 1000 thực khách; Quần thể các cụm biệt thự, khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao 200 phòng; Khu vui chơi giải trí dưới nước gồm hoạt động như cano kéo dù, môtô trượt nước tốc độ cao; Dịch vụ tham quan Vịnh Hạ Long bằng tàu du lịch, bằng cano; Dịch vụ tham quan Vịnh Hạ Long bằng máy bay trực thăng; Công viên trình diễn nhạc nước, laser, chiếu phim trên màn nước lần đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Năm 2014, Công ty Âu Lạc đang tiếp tục đầu tư sân golf 18 lỗ tại khu vực phía tây nam đảo, trung tâm hội thảo quốc tế, dinh thự cho Nguyên thủ của các nước Asean, khu resort 300 phòng ven biển, khu Thuỷ Cung, bến tàu du lịch, phim trường, hệ thống siêu thị, chợ hải sản và nhiều các công trình khác.
Tuyến phà Tuần Châu - Gia Luận chính thức đưa vào hoạt động từ tháng 4/2009. Từ ngày 28-6-2014, Tập đoàn Tuần Châu đã đưa thêm phà PM -16 vào khai thác sử dụng, nâng tổng số phà hoạt động lên ba phà, đáp ứng nhu cầu đi lại ngày càng cao của du khách.
Cảng du thuyền nhân tạo Tuần Châu – vịnh Hạ Long (nằm ở phía tây nam đảo Tuần Châu) là dự án hợp tác đầu tư giữa Tập đoàn Tuần Châu với UBND tỉnh Quảng Ninh tại Hội nghị xúc tiến đầu tư của Tỉnh ngày 23 và 24/2/2012. Cảng có tổng diện tích 1.728.133 m2 (bao gồm cả vùng nước neo đậu và vùng nước cửa cảng), diện tích mặt nước 661.197 m2, chiều dài neo đậu 6.030m, độ sâu tối thiểu 10m và tối đa là 14m, sức chứa trên 2.000 tàu. Tổng vốn đầu tư 3.000 tỉ đồng. Cảng du thuyền nhân tạo Tuần Châu được xây dựng quy mô hiện đại, với hệ thống hạ tầng, cây xanh, tiểu cảnh và dịch vụ đầy đủ như nhà ga, cửa hàng miễn thuế, siêu thị, khu bán hàng lưu niệm, chợ đêm, nhà hàng, khu vui chơi giải trí, khu xuất nhập cảnh, trung tâm cứu nạn... phục vụ khách du lịch. Ngày 4/8/2014, tại Khu Du lịch và Giải trí Quốc tế Tuần Châu, Tập đoàn Tuần Châu đón nhận chứng nhận kỷ lục Guinness Việt Nam về việc “Cảng du thuyền nhân tạo Tuần Châu - Vịnh Hạ Long lớn nhất Việt Nam”, do Tổ chức kỷ lục Guinness Việt Nam trao tặng. Với những lợi thế lớn, Cảng du thuyền nhân tạo Tuần Châu - vịnh Hạ Long là cảng nằm trong khu vực kín gió, neo đậu an toàn, cách luồng đường thuỷ quốc 1.500m và rất gần các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long. Cảng có hệ thống hạ tầng tiện ích và dịch vụ đồng bộ, là điểm đến lý tưởng của du khách trong và ngoài nước. Ngay sau khi Kỷ lục Việt Nam đã được công bố, Tập đoàn Tuần Châu và Tổ chức Kỷ lục Việt Nam sẽ tiếp tục đăng ký tham gia xác lập Kỷ lục Châu Á và Kỷ lục Thế giới. Đây là một bước đột phá nhằm đưa thắng cảnh bậc nhất Việt Nam, thương hiệu Vịnh Hạ Long vươn xa hơn nữa trên trường quốc tế.
Hòn Chó Đá: Nằm giữa khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng của vịnh Hạ Long, được bao bọc bởi những vách đá dựng đứng, hòn Chó Đá là một hòn núi nhỏ cao khoảng 8m, nằm trên mỏm núi phía Tây Bắc dưới chân dãy đảo Đầu Gỗ, cách cảng tàu du lịch 4km được thiên nhiên tạc đẽo thành hình một chú chó đá khổng lồ. Trong tâm thức của người dân, chó là con vật gần gũi, gắn bó và rất trung thành. Khi các làng chài còn tồn tại trên vịnh Hạ Long, bà con dân chài nơi đây coi đó là hình tượng bảo vệ cho sự bình yên của cư dân làng chài trên Vịnh.
Vẻ đẹp của hòn Chó Đá không bí ẩn nhưng lại chứa đựng những điều bất ngờ. Khung cảnh được quay vòng theo góc nhìn của người ngoạn cảnh, chỉ khi nhìn từ phía Tây Nam, hình ảnh chú chó mới hiện lên một cách rõ nét. Hình ảnh này đã tạo cảm giác thích thú cho người xem khi khám phá ra “bí mật” trong chuyến hành trình tham quan vịnh Hạ Long.
Hòn Đỉnh Hương (hòn Lư Hương): Theo tín ngưỡng tâm linh của người Việt Nam, bảo vật quý giá để thờ tự là đỉnh hương. Vậy mà giữa non nước mây trời của vịnh Hạ Long lại có hình dáng của một vật thiêng-một cái Lư Hương bằng đá khổng lồ, cao khoảng 12m, cách cảng tàu du lịch 5km về hướng Nam.
Hòn Đỉnh Hương nằm nổi bật giữa khung cảnh thiên nhiên biển trời và các đảo đá nhỏ của địa hình Karst kiểu phong Linh điển hình trên vịnh Hạ Long. Hòn Đỉnh Hương có những nét độc đáo hiếm thấy, khi thủy triều xuống, đảo đá để lộ 4 trụ chân vững chãi đỡ lấy khối đá, khối đá có chỗ được đẽo gọt như vuông vức với mặt nước biển. Khi thủy triều lên, những chiếc chân được giấu đi, hòn Đỉnh Hương lại mang hình dáng một tấm bình phong. Những vết đá nghiêng, gần như song song đó là vân đá hoa văn. Những chùm cây xanh vươn ra từ các kẽ nứt trổ hoa tím, hoa vàng, hàng vạn con bướm trắng đến múa vờn quanh đảo, làm cho đảo đá sống động, có hồn. Mùa gió bão hòn Đỉnh Hương còn là bức bình phong tâm linh che chở cho dân. Nơi đây là nơi tôn nghiêm, chứng kiến và chuyển tải nhiều điều ước nguyện tốt lành.
Hòn Trống Mái: Xuất phát từ cảng tàu du lịch, đi về hướng Nam 5km, hòn Trống Mái trên vịnh Hạ Long là tác phẩm mỹ thuật hoàn hảo nhất của thiên nhiên. Giữa nền nước trong xanh phẳng lặng, giữa khung trời sáng láng bao la, đôi gà đá đang châu mỏ chuẩn bị hôn nhau - niềm khát khao hạnh phúc muôn đời, hàng triệu năm qua đôi bạn vẫn bên nhau như thế. Với bao la bạn bầu đá Karst được sinh ra cùng trang lứa trên vịnh, cặp đảo đôi gà gồm hai đảo, cao 12m nhỏ nhắn, xinh xắn và cân đối. Màu da đá xám trắng đôi lúc long lanh những tinh vân, một vài cụm cây xanh như những sợi tơ trời vương vấn làm cho cặp đảo như có hồn, có hơi thở, có sức sống trường tồn. Ở những góc độ may mắn giữa những ngày tháng đẹp trời, cảnh sắc của nó biến đổi theo góc nhìn và thời gian, tạo nên trong giây lát những cảnh sắc khác thường về tạo dáng và màu sắc, nếu nhìn từ phía Tây nó có hình Trống Mái, nhưng nhìn từ phía Đông nó lại có hình con cá chép.
Đảo được chọn là biểu tượng của Di sản, một biểu tượng rất đặc trưng và độc nhất vô nhị của Hạ Long, là sự đồng thuận của triệu trái tim trong nước và khách du lịch quốc tế. Hàng triệu du khách thăm Vịnh, không ai từ bỏ dịp may được ghé thăm đảo và chụp ảnh với nó. Coi đó như lời nguyện ước hạnh phúc lâu bền. Nếu có dịp thăm vịnh Hạ Long, bạn đừng bỏ qua tuyệt tác mỹ thuật của tạo hóa đẹp nhất vô nhị này.
Động Thiên Cung: Trong hàng trăm chuyến tàu đưa khách thăm quan vịnh Hạ Long mỗi ngày, động Thiên Cung là điểm đến gần bờ được nhiều du khách lựa chọn, động nằm ở phía Tây Nam vịnh Hạ Long cách cảng tàu du lịch 4km, trên đảo Ðầu Gỗ ở độ cao 25m so với mực nước biển, có diện tích khoảng trên 3.000m2, là di tích của một hang ngầm cổ.
Năm 1901 bốn người Pháp đã phát hiện ra động (tên 4 người Pháp hiện vẫn lưu lại trên một măng đá ở cuối động), nhưng sự phát hiện đó bị lãng quên. Đầu năm 1993 một người dân Hạ Long đã tìm ra cửa động bị che kín bởi cây lá và dây leo. Chính thức từ đây động Thiên Cung được phát hiện trở lại.
Năm 1997, động Thiên Cung được bàn giao cho Ban quản lý Vịnh Hạ Long trực tiếp quản lý, đầu tư tôn tạo và khai thác phục vụ khách tham quan. Ngày 01/5/1998, động được mở cửa đón khách du lịch với hệ thống đường đi và điện chiếu sáng phục vụ du khách đến tham quan an toàn, thuận tiện.
Ðường lên động Thiên Cung qua những bậc đá nhỏ, hai bên lối đi thảm thực vật che phủ um tùm. Qua một khe cửa hẹp, lòng động mở ra như một cung điện nguy nga, đồ sộ. Đây là cả một thế giới thạch nhũ lung linh huyền ảo, có chỗ nhũ chảy thành suối, có chỗ nhũ kết thành trụ, tầng tầng lớp lớp phân bố từ trần tới đáy động, các dải nhũ đá đan quyện vào nhau tạo thành khung cảnh nguy nga, tráng lệ như ở cung điện nhà trời. Càng vào sâu trong lòng động du khách sẽ càng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp hết sức sinh động, lộng lẫy do thạch nhũ tạo nên, mỗi măng - nhũ đá là một tác phẩm điêu khắc với muôn hình, muôn vẻ và có màu trắng sáng như dát bạc, tạo ra không gian sống động, vừa thật, vừa ảo, những nét chạm khắc mềm mại uyển chuyển và vô cùng tinh tế sắc sảo tới từng chi tiết nhỏ. Tới đây, du khách chỉ còn biết mải miết ngắm nhìn, thả trí tưởng tượng vào những tác phẩm nghệ thuật của thiên nhiên. Rất nhiều hình ảnh kỳ thú, sống động nhiều màu sắc lung linh, mà mỗi lần tham quan du khách lại phát hiện thêm những điều mới lạ. Vậy còn chần chừ gì nữa, du khách hãy đến và khám phá vẻ đẹp kỳ vĩ mà thiên nhiên ban tặng cho động Thiên Cung của vịnh Hạ Long.
Hang Đầu Gỗ: Theo truyền thuyết dân gian, trước hang Đầu Gỗ là một vụng kín gió, nên ngư dân trong vùng thường về đây trú ngụ trong những ngày giông bão, hoặc sau thời gian đánh bắt, họ thả neo sinh sống đông đúc và dựa vào lợi thế trước cửa hang, họ đã đưa gỗ về đây để sửa chữa, đóng mới thuyền bè, khi đi họ đã bỏ lại nhiều mẩu đầu gỗ nên ngừơi ta đã gọi là hang Đầu Gỗ, và phải chăng cả dãy đảo chúng ta đang đứng đây cũng được mang theo tên của hang là dãy đảo Đầu Gỗ.
Nằm trong dãy đảo Đầu Gỗ, cách động Thiên Cung khoảng 300m về phía Đông, Đầu Gỗ là một trong những hang động được phát hiện sớm trên vịnh Hạ Long. Diện tích khoảng trên 5.000m2 và được chia làm 3 ngăn hang với cấu trúc mở từ bên ngoài và thắt dần vào phía bên trong, mỗi ngăn được tiếp nối với nhau bằng các vách đá, các khối thạch nhũ lớn. Cửa hang mở rộng 17m, cao khoảng 12m giống hình con sao biển. Hang Đầu Gỗ nằm ở độ cao 21m so với mực nước biển. Hang Đầu Gỗ đã trở thành một trong những địa danh nổi tiếng của vùng đất Hạ Long, bởi thế trong dân gian đã có câu:
“ Hồng Gai có núi Bài Thơ
Có hang Đầu Gỗ, có chùa Long Tiên”
Tháng 10 năm 1957, Hồ Chủ Tịch đến thăm hang Đầu Gỗ. Tại đây, Bác đã nói với mọi người đi cùng: “Cảnh đẹp một người không thể truyền lại cho nhiều người. Tất cả các chú phải cùng Bác thưởng thức” như muốn nhắn gửi tới tất cả du khách hãy đến thăm hang Đầu Gỗ, vẻ đẹp nơi đây không thể nói, không thể diễn tả hết bằng lời, có thế chúng ta mới thấy được vẻ đẹp diệu kỳ ở trong lòng các đảo đá của Hạ Long. Năm 1918, vua Khải Định cùng toàn quyền Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ là Sa-rô (Albert Pierre Sarraut) từ Hải Phòng đi tàu thuỷ đến thăm vịnh Hạ Long và lên tham quan hang Đầu Gỗ. Nhà vua cho quan sở tại Quảng Yên dựng tấm bia đá tại phía trái cửa hang để ghi lại dấu ấn của chuyến đi. Tấm bia cao 1,6m; rộng 0,9m, hoa văn trang trí thời Nhà Nguyễn. Hoạ tiết phía trên của bia đá có hình “Lưỡng long chầu nhật”(Đôi rồng chầu vào mặt trời), thể hiện âm dương luân hồi. Xung quanh là cảnh trí “Long vân kỳ ngộ” (Rồng, mây hoà quyện vào nhau). Phía dưới khắc hình con Lân thuộc tứ linh (Long, Lân, Quy, Phượng) là bốn loài vật linh thiêng được tôn thờ ở các đình, chùa, miếu mạo của dân tộc Việt Nam. Đế bia được chạm khắc công phu đầu hổ phù ngậm chữ “Thọ” kiểu chân quỳ tạo thế vững chãi, uy nghiêm, cổ kính.
Vào năm 1999, Ban quản lý Vịnh Hạ Long đã hoàn thành việc tu bổ tôn tạo hang Đầu Gỗ, xây dựng hệ thống cầu gỗ, đường dẫn, ánh sáng điện để tạo điều kiện thuận lợi cho du khách thăm hang, trên nguyên tắc tôn tạo nhưng không ảnh hưởng đến cảnh quan tự nhiên, phải phù hợp với cấu trúc hang và tên gọi. Năm 2010, Ban quản lý Vịnh Hạ Long đã lắp đặt sàn gỗ có sức chứa trên 300 khách trong lòng chảo rộng lớn của hang, phục vụ những buổi biểu diễn nghệ thuật và điểm dừng chân của khách tham quan, góp phần tạo nên một sản phẩm du lịch độc đáo của Hạ Long.
Cửa hang Đầu Gỗ mở rất rộng trên lưng chừng núi, chính vì thế các yếu tố tự nhiên như: ánh sáng mặt trời, mưa, gió...tác động trực tiếp đến ngăn đầu tiên của hang làm phong hoá toàn bộ hệ thống thạch nhũ vách đá ở ngăn thứ nhất này. Độ ẩm trong lòng hang cao, cộng với sự tác động của ánh sáng mặt trời nên có thể thấy ngay sự phát triển đa dạng của hệ thực vật, đặc biệt là rêu, dương xỉ và cả cây thân gỗ. Đến với nơi đây ta bắt gặp vẻ đẹp cổ kính, hoang sơ. Chính những lớp bụi thời gian ấy đã làm cho cảnh quan quan hang Đầu Gỗ trở nên thâm trầm, tĩnh lặng nhưng không gian ở đây cũng thường xuyên bị khuấy động bởi tiếng kêu của hàng ngàn con chim nhạn tụ tập sống trong hốc đá trên trần hang, mỗi khi có khách đến chúng dường như rất mừng rỡ bay xào xạc trên phía trần hang làm náo động cả một vùng không gian yên tĩnh.
Hang Sửng Sốt: Hang Sửng Sốt nằm trên dãy đảo Bồ Hòn, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy 12km về phía Đông Nam. Là hang động rộng nhất trong các hang động được đưa vào khai thác trên vịnh Hạ Long hiện nay, với diện tích 10.000m2, được chia làm 3 ngăn, diện tích tăng dần từ ngăn thứ nhất đến ngăn thứ ba. Chiều dài của hang khoảng 200m, chỗ rộng nhất trong hang khoảng 80m, chỗ cao nhất của trần hang xấp xỉ 25m.
Hang Sửng Sốt là hang động khô, dạng ống, chia ngăn, không phân tầng. Cửa hang có độ cao khoảng 25m so với mực nước biển, hang có cấu trúc đặc biệt, đó là cấu trúc thắt mở có nhịp điệu: sau một lối đi hẹp, không gian sẽ được mở rộng và các ngăn tiếp theo cũng có cấu trúc tương tự như vậy.
Hang Sửng Sốt có cửa hang mở rộng nên được phát hiện khá sớm trên vịnh Hạ Long, từ cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, đến năm 1946 tên của hang mới được biết đến qua các phương tiện thông tin đại chúng do một đoàn thám hiểm người Pháp đã đến đây. Từng không gian rộng được mở ra sau các lối đi hẹp, những khối măng, nhũ đá phong phú, đa dạng về hình dáng cấu trúc đã đưa họ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, và có lẽ tên “ Sửng sốt” đã bắt đầu hình thành trong ý niệm của đoàn thám hiểm để diễn tả cảm giác thú vị khi đặt chân tới đây - một thế giới khác lạ trong muôn hình muôn vẻ của các đảo đá vịnh Hạ Long.
Từ cuối năm 1996 đến nay, hang được Ban quản lý Vịnh Hạ Long quản lý. Để tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến tham quan đồng thời giữ được cảnh quan tự nhiên, BQLVHL đã cho đầu tư hệ thống chiếu sáng và hệ thống đường đi uốn lượn quanh lòng hang dài hơn 700m, ánh sáng được thiết kế phù hợp với kiến trúc hang đồng thời hài hòa với ánh sáng tự nhiên từ phía cửa hang. Hệ thống này được hoàn thành và đưa vào phục vụ khách du lịch từ tháng 5/1999.
Động Mê Cung: Nằm ở phía Đông Nam của hòn Lờm Bò, cách cảng tàu du lịch 15km. Động Mê Cung thuộc nhóm hang ngầm cổ, ở độ cao 20m so với mực nước biển, chiều dài 65 m, gồm 2 cửa: cửa thứ nhất nằm ở phía Đông Bắc, cửa thứ 2 nằm ở hướng Đông, cách cửa thứ nhất 25m. Động có cấu trúc phức tạp, có nhiều ngăn, nhiều ngách, rất dễ lạc lối, vì lẽ đó động có tên gọi Mê Cung.
Động được tìm thấy vào năm 1994 do một người dân chài Hạ Long. Sau đó một số công ty du lịch khai thác đưa khách vào tham quan. Đến năm 1997, động được bàn giao cho Ban quản lý vịnh Hạ Long quản lý. Hiện nay động mới chỉ được lắp đặt hệ thống chiếu sáng để khách tham quan thuận lợi hơn trong việc chiêm ngưỡng cảnh quan.
Động có hệ thống măng - nhũ đá dày tạo thành những khoảng riêng biệt, quanh co, bí ẩn, kích thích sự tìm tòi, khám phá của du khách. Ngay khi bước vào động, du khách có thể cảm nhận được âm thanh tí tách của những giọt nước nhỏ từ trần động xuống. Nhiều rèm đá trắng sáng, mềm mại, khi gõ nhẹ, tạo âm thanh sống động như tiếng đàn.
Động Mê Cung là một di chỉ khảo cổ học thuộc nền văn hóa Soi Nhụ. Trên một diện tích165m2, phủ một lớp trầm tích vỏ ốc đã bị Cacbonat hoá màu trắng. Một điều đặc biệt, những vỏ ốc đó không phải là những vỏ ốc biển mà là ốc suối Melania – ốc nước ngọt, chứng tỏ rằng con người đã cư trú ở đây từ khi Hạ long chưa là biển. Trên vách phải cửa động một lớp trầm tích dày 0,80m2, đây là tầng văn hoá đã bị những người phát hiện động sửa chữa và san bằng tạo thành mặt bằng cửa động. Đây chính là di vật còn sót lại giúp các nhà khoa học nghiên cứu về nền văn hóa nơi đây. Bằng các nghiên cứu khoa học, các nhà khảo cổ đã khẳng định VHL là một trong những cái nôi của người Việt cổ với nền văn hoá huy hoàng có tên: văn hoá Hạ Long. Đây là một nền văn hoá có những đặc trưng riêng mang đậm yếu tố biển, phân bố tập trung tại khu vực độc lập nhưng không hề biệt lập, nó gắn liền với nền văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Hàng loạt các di chỉ khảo cổ đã được phát hiện chứng minh cho các nền văn hoá nối tiếp nhau phát triển như: văn hoá Soi Nhụ(18000-7000 năm cách ngày nay), văn hóa Cái Bèo(7000-5000 năm cách ngày nay), văn hoá Hạ Long(4500-3500 cách ngày nay). Căn cứ vào lớp trầm tích vỏ ốc hoá thạch tại đây, các nhà khoa học đã xác định động Mê Cung là một trong số các di tích khảo cổ thuộc văn hoá Soi Nhụ. Mặc dù tầng văn hoá đã bị xáo trộn rất nhiều, tuy nhiên những di vật còn sót lại cũng đủ để khẳng định rằng người tiền vđiểm đó chắc chắn VHL vẫn còn là môi trường lục địa với những con sông, suối nước ngọt và nguồn thức ăn phong phú. Người nguyên thuỷ đã biết sử dụng những mái đá, vòm hang để làm nơi cư trú, tránh mưa nắng và thú dữ. Thức ăn chủ yếu là nhuyễn thể nước ngọt, phương thức sinh sống là thu lượm hoa quả, ốc, hến tại những con sông, suối. Người nguyên thuỷ đã biết sử dụng những hòn đá, mảnh tước thô sơ để làm công cụ lao động như: chặt, ghè, nghiền thức ăn. Một số vỏ ốc tại đây còn bị cháy xém, điều đó giúp ta khẳng định rằng, thời kỳ đó, người nguyên thuỷ đã biết dùng lửa để nướng thức ăn.
Năm 1996 các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện 1 bộ xương thú bán hóa thạch hầu hết đã bị vỡ vụn trong đó còn 4 xương ống. Bộ xương này được xác định có niên đại cùng thời với trầm tích vỏ ốc suối. Có giả thiết cho rằng đây có thể là linh vật dùng trong nghi lễ cũng tế của người tiền sử. Ở vách động nhóm cán bộ chuyên môn của Ban quản lý vịnh Hạ Long còn phát hiện ra công cụ bằng đá trong một chuyến đi khảo sát vào tháng 10 năm 2008. Nó được mài nhẵn, dày khoảng 1,5 - 2cm, rộng 4cm, dài chừng 30cm (chưa kể phần mũi đã bị nhũ đá bao phủ), có chuôi có thể cầm tay hoặc tra cán. Theo nhận định ban đầu của Tiến sĩ Trình Năng Chung, chuyên gia nghiên cứu về văn hoá thời đại đá - Viện khảo cổ học Việt Nam, đây có thể là một mũi lao đá của người tiền sử, có công dụng để tự vệ hoặc săn bắt thú. Theo ông, đến thời điểm này, đây là mũi lao đá dài nhất được phát hiện ở Việt Nam. Hiện nay, công cụ này vẫn tiếp tục được Viện khảo cổ học Việt Nam nghiên cứu.
Đến với Mê Cung du khách không chỉ được chứng kiến dấu tích của những người nguyên thuỷ, không chỉ được chiêm ngưỡng muôn hình vạn dáng của thạch nhũ mà còn được chiêm ngưỡng một cảnh quan tuyệt đẹp, sự kết hợp giữa cái thô cứng, khoẻ khoắn của hang động với nét duyên dáng, thơ mộng của một hồ nước nằm ngay giữa bốn bề là núi - áng Mê Cung. Áng Mê Cung là một hồ nước mặn tương đối kín, có chu vi khoảng 1.100m. Hầu hết các bờ bao của hồ là vách đá dựng đứng, chỉ có bờ phía Đông của hồ có một dải đất hẹp, tại đây thảm thực vật tương đối tốt. Nền đáy hình lòng máng hướng về một cửa thông nằm ở phía Tây Nam, nhờ có cửa thông này mà mức nước trong lòng áng Mê Cung được lên xuống theo thủy triều hàng ngày. áng này được hình thành và phát triển từ các phễu karst, giếng karst cổ kết hợp với quá trình vận động kiến tạo khu vực làm sụt lún một phần địa hình, đây là một dạng địa hình đặc biệt ở khu vực vịnh Hạ Long. Từ mép bờ áng ra khoảng 3m là dạng rạn đá bùn, từ khoảng 3m trở ra có một dải san hô nhỏ. Giữa lòng áng chủ yếu là nền đáy bùn. Chính điều kiện tự nhiên này kết hợp với sự lặng gió, ít sóng trong áng đã tạo nên 1 khu bảo tồn nguồn gen quý hiếm có giá trị khoa học và giá trị kinh tế cao như: San hô, Trai ngọc, Vẹm xanh, con Sút, Sò, rong Guột…
Bên cạnh hệ sinh thái tùng áng, khu vực này là nơi sinh sống cho những loài thực vật khác nhau. Bên cạnh Sanh, Sảng, đa lá nhám, khoai nưa hoa chuông…còn bắt gặp các loài thực vật đặc hữu của VHL như: Ngũ gia bì, Cọ Hạ Long, Tuế Hạ Long, Bóng nước Hạ Long, Cầy ri ta một cặp, Cầy ri Hạ Long(Khổ cử đại Hạ Long), Cầy ri hiệp (Khổ cử đại hiệp), Cầy ri ô hòa, Song bế Hạ Long, Sung Hạ Long, Cơm nguội chân, Nhài Hạ Long, An điền Hạ Long, Ngoại mộc tai, Nan ông Hạ Long, Riềng Hạ Long ; các loài cây ăn quả như: quất hồng bì, bứa; các loài cây làm thuốc như: Cốt toái bổ, bình vôi, dây gắm. Đồng thời nơi đây cũng là nơi sinh sống của một số loài động vật như: kỳ nhông, khỉ và chim như: sáo đất, quạ đen, hoét, diều hâu…
Hang Bồ Nâu: Cách bến tàu du lịch khoảng 12km về phía Đông Nam, nằm ở trung tâm Di sản thiên nhiên thế giới. Theo những ngư dân sống lâu năm trên vịnh Hạ Long,ngày xưa hang này có rất nhiều chim Bồ Nông đến đây sinh sống và trú ngụ, loài chim này có lông màu nâu đen,vì vậy dân chài thường gọi hang này là hang Bồ Nông, sau đọc chệch thành Bồ Nâu.
Hang Bồ Nâu thuộc dạng hang nền Karst cổ, thuộc nhóm hang hóa thạch khô, ngắn, nền hang chia làm 2 mức cao là 3-5m và 7-10m so với mực nước biển hiện tại. Những vết nứt nẻ, dập vỡ trên khối đá vôi là kết quả của các pha chuyển động tạo sơn Indosini và Anpi. Quá trình karst tạo hang phát triển trong Pleixtoxen giữa-muộn và Holoxen (cách ngày nay 781.000 – 11.700 năm) đã làm bào mòn đá vôi, mở rộng hệ thống khe nứt, hình thành nên hang.
Hang Bồ Nâu có giá trị thẩm mỹ cao. Theo một số tư liệu của người Pháp và báo chí chữ Việt đầu thế kỷ XX thì hang Bồ Nâu là một trong những cảnh quan đẹp của Vịnh Hạ Long và là địa chỉ du lịch hấp dẫn đối với khách muôn phương thời bấy giờ. Hơn nữa, hang Bồ Nâu là một hang được những người yêu thiên nhiên biết sớm bởi tấm ảnh nổi tiếng chụp từ trong hang Bồ Nâu nhìn ra, cửa hang là những dải nhũ đá buông rủ, phất phơ… phía đằng trước là dãy núi xanh mướt, nhấp nhô, chứa đựng những huyền bí, tất cả đều làm nền để tôn lên hình ảnh cánh buồn đỏ thắm trên mặt biển xanh trong. (Bức ảnh bày được ông Nguyễn Duy Kiên chụp năm 1958).
Hang Bồ Nâu là một trong số các di chỉ khảo cổ hang động thuộc nền văn hoá Soi Nhụ cách ngày nay từ 18.000 - 7.000 năm. Dấu tích cư trú của người tiền sử nằm ở vách phía Tây Bắc, gần cửa hang cách mực nước biển 5 - 7m. Diện tích tầng văn hoá còn lại khoảng 20m2, chiếm một phần nhỏ diện tích bề mặt hang và nằm rải rác dưới những tảng đá lớn. Các trầm tích văn hóa ở đây hầu hết đều bị rửa trôi. Vết lộ của tầng văn hoá cho thấy thành phần chủ yếu là ốc suối Melania và ốc núi Cyclophorus phần lớn đã bị mất đuôi. Ngoài ra, còn thấy xuất hiện các vỏ sò, vỏ ốc nước mặn. Thành phần cấu tạo tầng văn hoá gần gũi với di chỉ hang Đục, hang Soi Nhụ.
Khu vực hang Bồ Nâu là nơi tập trung hệ sinh thái các thảm thực vật trên đảo và hệ sinh thái hang động. Môi trường sống trong hang động không đa dạng và tương đối nghèo do thiếu ánh sáng, độ ẩm không khí cao, nguồn thức ăn tự nhiên nghèo, nhiệt độ ổn định quanh năm nên quần xã sinh vật nghèo nàn hơn hẳn các hệ sinh thái khác. Nơi đây tập trung chủ yếu các loại côn trùng, chân khớp, thân mềm, dơi...Trước cửa hang có một bãi đá thoải nhỏ tập trung nhiều loài động vật thân mềm như: ốc giỗ, ốc vôi, ốc đĩa, sò lông, quéo, bàn mai...Bên cạnh các loài thực vật đặc hữu như: Tuế Hạ Long, cọ Hạ Long, Riềng Hạ Long, hang Bồ Nâu còn là nơi tập trung các loài thực vật khác như: trúc, bông mộc..là những loài thực vật ưu thế tạo nên vẻ đẹp cho khu vực.
Hang Luồn: Nằm phía Đông Bắc nằm trên dãy đảo Bồ Hòn, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 14km về phía Đông Nam. Hang Luồn có hình dáng giống như một đường hầm có phần nền ngập nước. Hang là một đường thông giữa biển với hồ nước mặn - được bao quanh bởi các vách đá dựng đứng hình vòng cung. Muốn vào trong hồ phải đi bằng thuyền nhỏ có bơi chèo vì trần hang thấp và thay đổi theo con nước thủy triều, vì vậy dân chài gọi tên là hang Luồn.
Hang Luồn là dạng hang hàm ếch biển, có hình giống như một đường hầm với chiều dài 50m, rộng 10m, cao 0 - 4m, hai cửa hang hơi loe hơn so với trong lòng. Vách hang là đá gốc và những hốc lồi lõm do sóng biển và dòng triều bào mòn, đôi chỗ bị những vỏ hà và ốc bám vào. Nền hang bị ngập nước hoàn toàn. Trần dạng vòm và đôi chỗ dạng mái phẳng, khi thuỷ triều lên cao có một phần bị ngập nước. Có 2 khe nứt từ trên xuống chạy dọc theo chiều dài của hang, các nhũ đá đang tiếp tục phát triển gần vách phía Bắc, có 2 nhũ đá dài khoảng 2m bị rêu tảo bám xung quanh.
Hang thông với hồ karst, rộng khoảng 70.000m2, vách phía Bắc, Đông Bắc có chiều cao 120m. Vách phía Nam và phía Tây Nam thấp hơn, khoảng 80m, có sườn thoải và dưới chân là các khối đá nhỏ.
Khác với những điểm du lịch khác trên Vịnh Hạ Long, hang Luồn có vị trí và địa thế rất đặc biệt, nằm thu mình trong một vụng lớn, nước trong xanh, không gian tĩnh mịch. Giữa các đảo đá khu vực này có một ngọn núi cao vượt lên, nhìn xa như một lưỡi mác đâm thẳng lên trời với dáng vẻ uy nghi sừng sững.
Thiên nhiên khéo tạo nên một đường hầm mái vòm rộng xuyên qua chân núi. Du khách vào thăm hang bằng thuyền nhỏ, có mái chèo. Những dải nhũ đá rủ xuống, lơ lửng trên trần hang, đủ gần để du khách cảm nhận được sự đối lập và hòa hợp của hai chất liệu làm lên tuyệt tác Vịnh Hạ Long - đá và nước. Khung cảnh được rộng mở khi thuyền đi qua lòng hang, hòa vào hồ nước trong xanh, phẳng lặng. Bốn bề vách đá được điểm xuyết bằng những mảng màu xanh mướt của thảm thực vật đầy sức sống. Không khí mát lạnh, tiếng nước nhỏ tí tách, tạo nên một bức tranh thiên nhiên thuần khiết hoang sơ và thanh bình.
Hang Luồn là một dạng đặc trưng kiểu ngấn biển hàm ếch, nơi đới xâm thực ngang cuối cùng là mực nước biển, có cấu tạo đá bị ăn mòn mạnh nhất và nền hạ thấp thành thềm xâm thực sóng là bề mặt xâm cắt ngang. Tất cả các khối đá bị sóng, dòng triều khoét dần, tạo vách ăn mòn kiểu hàm ếch và các hang biển nhỏ thông qua chân đảo được hình thành có chọn lọc.
Vào kỷ đệ tứ, thế Pleistocene khi nước biển xâm thực vùng đá vôi Hạ Long, các đồi và tháp đá bị biến đổi hình dạng do xâm thực biển và quá trình này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Khi mực nước biển ổn định thì đá vôi bị ăn mòn dần theo mực nước biển và ngày càng mở rộng tạo ra các vách biển. Quá trình ăn mòn hoá học, hoà tan, mở rộng khe nứt của thuỷ triều, sóng và nước mưa phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình mở rộng ngấn biển và khoét sâu tạo thành các đường thông qua chân đảo.
Hang Luồn có trần hang dạng vòm kiểu hang ngầm và có những chỗ dạng mái phẳng do mất cân bằng trọng lực làm sập đổ trần đá vôi, khi thuỷ triều lên cao có đôi chỗ bị ngập. Trên trần hang có 2 khe nứt từ trên xuống chạy dọc chiều dài của hang theo hướng Bắc - Nam, tại đây nước mưa ngấm xuống theo khe nứt mài mòn, hoà tan đá vôi và tích tụ một phần tại trần hang tạo ra các nhũ đá. Hang thông vào một hồ karst khép kín rộng khoảng 70.000m2, nước trong hồ lên xuống theo thuỷ triều. Hồ karst này là kết quả của quá trình nâng hạ kiến tạo với các vách đá vôi thẳng đứng, ở vách phía Bắc, Đông Bắc và những khối đá vôi có sườn thoải có những tảng đá nhỏ dưới chân - đây là kết quả của quá trình trượt đổ sườn làm dập vỡ các tảng đá vôi.
Hang Luồn là nơi có hệ sinh thái đặc trưng của VHL là HST Tùng, áng. Tại đây môi trường nước ổn định, không có sóng và rất trong sạch nên HST ở đây phát triển mạnh và mang những nét độc đáo riêng. Đảo đá ở nơi đây có hệ thực vật phong phú, đa dạng, trong đó có một số loài đặc hữu của VHL như: lan hài vệ nữ hoa vàng, thiên tuế HL…Đặc biệt, hang Luồn còn là nơi trú ngụ của loại khỉ vàng (Macaca mulatta):
Hang Luồn là một trong số các di chỉ khảo cổ hang động thuộc văn hoá Soi Nhụ cách ngày nay từ 18.000 - 7.000 năm. Trên các vách hang và phía trong có nhiều quần thể Ostrea, các lớp trầm tích vỏ ốc suối, ốc núi và nhuyễn thể nước ngọt bám ở độ cao 3 - 4m so với mực nước biển. Điều đó đã chứng tỏ trong một khoảng thời gian tương đối dài nơi đây là môi trường lục địa. Đây là một trong những tư liệu quý để nghiên cứu về khí hậu, môi trường sống từ thời tiền sử tại khu vực Vịnh Hạ Long.
Hang Trống: Nằm trên dãy đảo Bồ Hòn, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 14km về phía Đông Nam. Hang nằm trong khu vực của Di sản thiên nhiên thế giới vinh Hạ Long, nơi tập trung rất nhiều hang động đẹp như: hang Sửng Sốt, động Mê Cung, hang Luồn, đảo Ti Tốp…Hang được những người dân chài đặt tên vì khi đứng trong hang ta có thể nghe thấy tiếng gió lùa qua các khe đá dội trở lại vách hang tạo ra âm thanh như tiếng trống.
Hang còn được gọi là hang con trai do có xuất xứ gắn liền với với truyền thuyết của dân chài vùng Hạ Long: xưa có 1 cô gái làng chài xinh đẹp, nhà nghèo, phải đi làm thuê cho tên chủ cai quản vùng đánh cá. Thấy cô xinh đẹp, hắn ép cô làm vợ bé nhưng cô không chịu. Chàng trai – người yêu cô lúc đó đang ra khơi đánh cá để chuẩn bị cho ngày cưới. Không làm gì được, tên chủ đã đẩy cô ra đảo hoang nhằm khuất phục ý chí của cô. Ngày qua ngày, cô đói lả và kiệt sức. Khi chàng trai trở về, biết tin cô gặp nạn, chàng trai bèn mải miết bơi thuyền đi tìm. Đêm xuống, giông bão ập đến, thuyền của chàng trai vỡ nát, chàng dạt vào đảo hoang và trú trong 1 cái hang nhỏ. Trong ánh chớp, chàng trai nhìn ra phí xa và nhận ra cô gái ở trong một hang đá gần đó, chàng thảm thiết gọi cô nhưng tiếng của chàng bị gió mang đi. Chàng dùng hòn đá đập vào vách để báo cho cô gái biết rằng chàng đã đến nhưng cô gái không hay. Chàng trai gõ mãi đến khi kiệt sức. từ đó người dân chài gọi là hang Con Trai.
Thuộc dạng hang nền karst cổ, rộng khoảng 300m2. Hang có hai cửa dạng vòm thông nhau, cách nhau khoảng 60m. Nổi bật trong gian khoáng đạt bởi lòng hang rộng, toàn hang như được phủ màu lam tím, kín đáo và trang nhã. Nhìn từ trong ra, những chùm nhũ đá xám bạc từ trần hang rủ xuống nổi bật trên nền không gian mênh mông của vịnh Hạ Long tạo nên một bức họa thiên nhiên với những mảng sáng, tối đầy ấn tượng.
Thực vật sống ở cửa hang chủ yếu là si, sanh, khổ cử đại tím, nho biển; thực vật đặc hữu có sung. Đặc biệt, cửa Tây Bắc có một diện tích nhỏ nền hang cách biệt với bên trong, có nền đất xốp tạo điều kiện cho một số loài thực vật phát triển như: Trúc, màng kiên, khổ cử đại móc, dương xỉ sống trên các khối đá tảng hoặc hốc nhỏ. Phía trên cửa hang là vi sinh cảnh vách đá, các loài thực vật ở đây luôn phải phơi mình dưới ánh nắng mặt trời và chịu tác động của những điều kiện khô hạn: Thiên tuế Hạ Long - loài thực vật đặc hữu của Hạ Long, bông mộc.
Hang Trống là một trong số các di chỉ khảo cổ hang động thuộc nền văn hoá Soi Nhụ, có niên đại cách ngày nay từ 18.000 - 7.000 năm. Tại hai cửa phía Tây Bắc và Đông Nam đều thấy dấu vết của các lớp trầm tích màu nâu ngả vàng và lớp vỏ ốc nước ngọt Melania và ốc núi Cyclophorus. Bên cạnh đó, còn có một số nhỏ các loài nhuyễn thể nước ngọt khác như: Trầm trục, vỏ sò, vỏ trai.
Du khách nước ngoài thường chọn hang Trống để tổ chức tiệc rượu. Khu vực hang Trống cũng là 1 trong 6 điểm neo đậu nghỉ đêm trên vịnh Hạ Long.
Hang Trinh Nữ: Nằm ở phía Đông Bắc của dãy đảo Bồ Hòn, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 14km về phía Đông Nam. Hang được gọi là hang Trinh Nữ hay hang Con gái. Tên gọi hang gắn liền với câu chuyện tình cảm động của một đôi trai gái dân vạn chài, vì giữ tròn chữ hiếu và tình yêu chung thủy nên cô gái đã hóa đá. (Câu chuyện trong phần hang Trống). Trong hang có 1 tảng đá nằm ngang trông tựa như cô gái nằm xõa tóc vươn tay ra biển vì vậy hang được gọi là hang Trinh Nữ.
Hang Trinh Nữ là di tích của hang nền karst cổ, thuộc nhóm hang hoá thạch, dạng buồng, phân tầng, nằm ở độ cao 5 - 10m so với mực nước biển. Lối đi của hang dốc, có 2 cửa nằm đối diện nhau. Một cửa quay về hướng Tây Bắc, một cửa quay về hướng Đông Nam. Cửa Tây Bắc có dạng hình thang mở rộng, chiều cao khoảng 15m, chiều rộng khoảng 25m; cửa Đông Nam có dạng vòm, chiều cao 10m, chiều rộng khoảng 30m. Hang bị thắt lại bởi hệ thống măng nhũ đá, cột đá phát triển ở gần giữa hang và cửa hướng Tây Bắc. Theo cấu trúc tổng thể của hang có thể chia hang thành 3 ngăn nối tiếp nhau. Ngăn thứ nhất là một ngăn nhỏ, có cửa mở rộng tạo mái bằng phẳng song song với nền hang, hệ thống măng nhũ phát triển với các nhũ đá kéo dài và các măng đá lớn. Hai bên vách ngăn là nhũ đá đã bị rêu phủ kín đôi chỗ. Ngăn thứ hai có diện tíchch nhỏ hơn ngăn thứ nhất. Cửa chính đi vào ngăn nằm giữa khoảng trống của hai cột đá lớn. Nền ngăn gồ ghề, được chia thành nhiều vũng nhỏ đọng nước quanh năm. Các cột đá với đường kính lớn ngăn cách không gian trong lòng ngăn tạo nên nhiều ô với diện tích không lớn. Trần chỉ cao khoảng 2,5 - 3m, phẳng, nhẵn và rất ít nhũ đá. Ngăn thứ ba có diện tích lớn nhất, không gian rộng, thoáng, chiều dài 25 - 30m. Ngăn được chia làm 2 tầng. Nền tầng trên chủ yếu là đá gốc bị bào mòn xen lẫn dăm cát, một phần bị sập đổ xếp nối tiếp nhau từ nền tầng trên xuống tầng dưới. Nền tầng dưới cũng là những khối đá lớn nhỏ nằm xen kẽ. Do cửa Đông Bắc mở rộng, ánh sáng chiếu sâu vào hang, độ ẩm không khí cao đặc biệt là ở tầng dưới nên măng nhũ đá bị một lớp rêu màu nâu sẫm bao phủ.
Đây là một hang động đẹp với không gian khoáng đạt, cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ bí ẩn. Giá trị cảnh quan của hang Trinh Nữ nổi bật bởi những nét cổ kính rêu phong. Ánh sáng lọt vào hang làm nổi bật màu trắng ngà của thạch nhũ với những hình dạng được thiên nhiên khắc hoạ sống động: hình ảnh một người đàn ông mặt đỏ, râu dài, dáng điệu uy nghi; hình ảnh một cô gái nằm xoã mái tóc dài, mắt hướng ra khơi xa... Những nhũ đá rủ xuống từ trần hang như những chiếc đèn chùm.
Quần xã thực vật tại đây phong phú, đa dạng, tập trung chủ yếu ở cửa hang, vách núi và sườn núi. Ở cửa hang tập trung chủ yếu là khổ cử đại móc lá mềm với số lượng lớn sống xen kẽ cùng dương xỉ. Tại khu vực sườn núi, ngoài những loài thực vật đặc hữu như móng tai Hạ Long sống trong hốc đá, sung Hạ Long trên khối đá trước cửa hang còn có trúc, si, nho biển và một số loài cây bụi. Trên đỉnh hang, phía trước, sau hang chủ yếu là thảm thực vật vách đá với sự xuất hiện của bồ đề, trúc và cá loài thực vật đặc hữu như Thiên tuế Hạ Long, Giềng Hạ Long.
Hang Trinh Nữ là một trong những di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hóa Hạ Long, cách ngày nay khoảng 4.500 năm. Hiện tại, phía bên trái cửa hang, còn một lớp trầm tích mỏng, diện tích khoảng 4m2 nằm phía dưới một tảng đá lớn gồm vỏ sò, ốc suối vỡ vụn và những mảnh gốm xốp, vụn, bở pha lẫn vỏ sò mang đặc điểm của gốm văn hóa Hạ Long. Tuy nhiên, do vị trí tầng di tích nằm gần cửa hang, cạnh đường đi, chịu tác động của thủy triều (những ngày nước lớn), là nơi có nhiều khách du lịch và ngư dân qua lại thường xuyên lên hang trú ẩn mỗi khi mưa bão, do vậy, tầng văn hóa ở đây gần như bị phá huỷ hoàn toàn.
Hang Hồ Động Tiên: Nằm ở phía Đông của đảo Bồ Hòn cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 12km về hướng Đông Nam. Hang được thông với một hồ nhỏ nằm lọt trong lòng núi. Hồ này gắn liền với một truyền thuyết rằng: xưa nơi đây còn rất hoang vắng nhưng có phong cảnh sơn thuỷ hữu tình. Vào những buổi chiều đẹp trời các nàng tiên xinh đẹp thường rủ nhau xuống tắm và hóng mát ở hồ. Vì thế, sau này người dân quanh vùng đặt tên là Hồ Động Tiên. Hang gần hồ được gọi là hang Hồ Động Tiên.
Hang Hồ Động Tiên thuộc nhóm hang nền Karst cổ, nằm ngang với mực nước cơ sở, bán ngập măng nhũ đá lớn. Ngăn thứ nhất dài khoảng 50m chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có một khối đá lớn nằm chắn cửa hang tạo thành một khe hẹp và một lối đi chính rộng 4m. Vách hang phía Bắc bị bào mòn, rửa lũa mạnh, vách phía Nam ít bị tác động hơn. Nền hang đã được tu sửa tạo một lối đi, phần còn lại là một dòng suối nhỏ có nước chảy từ trong hang ra ngoài biển và bị ngập khi thuỷ triều lên. Trần ngăn này có 2 tầng, hầu hết trần của tầng dưới đã bị sập đổ, chỉ còn dấu tích tại vách hang (cách cửa vào 30m). Trần tầng hai khá bằng phẳng, nhẵn. Hệ thống măng nhũ đá kém phát triển, chỉ có một số ít phân bố dọc theo các khe nứt. Cuối ngăn thứ nhất xuất hiện nhiều cột đá lớn và hệ thống nhũ đá mới được hình thành, màu vàng nhạt và có nhiều tinh thể canxit màu trắng sáng. Ngăn thứ nhất thông với ngăn thứ hai qua một khe nứt hẹp được mở rộng có chiều dài 12m, rộng 0,5 - 2m, cao 1m. Ngăn thứ hai rộng khoảng 120m2, cao khoảng 4,5m. Nền hang tương đối bằng phẳng, không có măng đá phát triển; giữa nền hang có một khối nhũ đá bị rơi từ trần xuống. Cửa ngăn thứ hai được ngăn bởi một khối đá lớn, ở giữa lòng hang có nhiều khối đá nằm ngổn ngang và thông ra một áng nhỏ. Áng có chiều rộng 60m, dài 90m, nước trong áng lên xuống theo thuỷ triều, khi triều cạn để lộ gần như toàn bộ nền đáy. Ngăn thứ hai thông với ngăn thứ ba bằng một khe hẹp dài 2m, rộng 0,5m, cao 0,7m tại vách phía Đông. Ngăn thứ ba có diện tích khoảng 150m2, cao từ 1 - 3,5m, dạng túi, không có ánh sáng chiếu vào. Sát vách phía Nam có nhiều cột đá màu trắng sáng lấp lánh vảy canxit. Nhũ đá ở ngăn này có dạng như thác đá bám vào thành hang. Lòng hang ẩm ướt, nước nhỏ giọt từ trên trần xuống. Nền hang dạng gợn sóng. Trần hang dạng vòm, phẳng, chỉ có một phần sát vách phía Nam tạo nhũ đá, kết thành chùm lớn.
Trong số các hang động đẹp được phát hiện trên Vịnh Hạ Long, Hồ Động Tiên là một hang có vẻ đẹp kỳ thú và có sức hấp dẫn. Sự thắt, mở trong lòng hang đã tạo không gian và vẻ đẹp riêng với đường nét khoẻ khoắn, mộc mạc, những măng nhũ đá mang hình thù sống động. Hệ thống ánh sáng trong hang cũng được phân bố rất khác lạ, có nơi thì ánh sáng tràn ngập, nơi ánh sáng mờ ảo, nhưng lại có nơi ánh sáng không lọt được vào.
Vẻ đẹp của hang còn được thể hiện ở hệ thống măng nhũ đá tại ngăn thứ ba vẫn đang trong quá trình hình thành, được bao phủ một màu trắng sáng. Những khối thạch nhũ được bàn tay tạo hóa chạm trổ tinh tế, công phu với những đường nét tráng lệ nguy nga như một cung điện. Tại vách hang là các rèm đá mềm mại với mầu vàng nhạt như rèm sân khấu. Từng chùm nhũ đá kết thành những chiếc đèn chùm nhiều màu sắc trang trí trên trần hang. Một điểm nhấn được tạo hóa thêm vào cho cảnh sắc của hang Hồ Động Tiên đó là hồ nước trong xanh nằm gọn trong lòng đảo, bốn bề là vách đá được khoác trên mình một thảm thực vật ngăn cách hồ với thế giới bên ngoài tạo vẻ đẹp bí ẩn, thanh bình, đầy quyến rũ. Tất cả là một sự hài hoà giữa cảnh sắc trong hang và không gian hoang sơ của cảnh quan hồ karst bên ngoài, làm nên dấu ấn riêng cho hang Hồ Động Tiên.
Hang Hồ Động Tiên có những hệ sinh thái điển hình của Vịnh Hạ Long đó là: Hệ sinh thái các thảm thực vật trên đảo, hệ sinh thái tùng áng và hệ sinh thái hang động. Điều kiện đọng nước, ẩm ướt, ít ánh sáng trong hang thuận lợi cho một số loài động vật như: Các loại ấu trùng, bọ chét nước, giun đất, thạch sùng... sinh sống; bên cạnh đó còn xuất hiện loài cua hang với số lượng rất ít và không gặp thường xuyên. Nơi đây không chỉ tập trung một số hệ sinh thái điển hình của vịnh Hạ Long mà còn là nơi sinh sống của một số loài động thực vật đặc hữu như: Giềng Hạ Long, móng tai Hạ Long, thiên tuế Hạ Long, cọ Hạ Long.. Chính vì vậy, khu vực này rất có ý nghĩa cho việc nghiên cứu giá trị đa dạng sinh học, đặc biệt là hệ sinh thái hang động, tùng, áng.
Hang Hồ Động Tiên nằm tại khu vực lạch Giải - một trong số những tuyến đường mà thuỷ quân ta đã len lỏi qua các núi đá và sử dụng các hang động nơi đây làm tuyến phòng thủ, chống lại thuỷ quân của địch trong những năm tháng chiến tranh chống giặc ngoại xâm. Theo Sách Hạ Long lịch sử thì nơi đây, dưới triều Vua Tự Đức, loạn lạc xảy ra khắp nơi, các hang động trên vịnh Hạ Long đã trở thành các căn cứ bí mật và là sào huyệt vô cùng lợi hại của các phong trào chống đối chính quyền Nhà Nguyễn. Khu vực Lạch Giải còn là một trong những tuyến đường thuỷ, là điểm xuất phát của hàng trăm chuyến tàu không số trong hành trình “Đường Hồ Chí Minh trên biển” chở vũ khí, đạn dược, thuốc men từ miền Bắc để chi viện cho các chiến sỹ và đồng bào miền Nam góp phần làm lên chiến dịch lịch sử Mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước.
Đảo Ti Tốp (Đảo Cát nàng): Là một hòn đảo đẹp nằm trên lạch Cát Nàng, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 12km về hướng Đông Nam, cách đảo Bồ Hòn khoảng 01 km về phía Nam. Titôp là đảo đá vôi, dạng địa hình Karst sót của vịnh Hạ Long, đặc trưng cho tháp Karst kiểu Phong Linh, có độ cao khoảng trên 100m so với mực nước biển.
Trước năm 1962, trên hải đồ VHL, đảo có tên là Cát Nàng, bởi lẽ nơi đây có bãi cát đẹp, những cô gái vạn chài thường ghé thuyền đến tắm, vì thế dân quanh vùng gọi là đảo Các Nàng, sau này đọc chệch thành Cát Nàng. Ngày 22/1/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Anh hùng vũ trụ Liên Xô (cũ) Giéc-man TiTốp thăm Vịnh Hạ Long và lên thăm đảo. Để ghi nhớ sự kiện này, cũng như để biểu hiện tình hữu nghị keo sơn gắn bó lâu dài giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân nước bạn, Bác Hồ đã đề nghị lấy tên TiTốp đặt tên cho đảo, sau đó HĐND tỉnh Quảng Ninh đã chính thức quyết định đặt tên đảo thành TiTốp.
Trong số 411 hòn đảo có tên của vùng Di sản TNTG Vịnh Hạ Long thì đây là hòn đảo duy nhất mang tên người nước ngoài có xuất xứ tên gọi rõ ràng được Bác Hồ kính yêu đặt tên. Phần lớn tên gọi các đảo khác thường có nguồn gốc Hán (Tuần Châu, Trinh Nữ, Kim Quy...) hoặc tên thuần việt (Rều, Con cóc, Gà chọi, Đầu mối...)
Năm 1997, Ban quản lý vịnh Hạ Long đã bắt đầu thực hiện dự án đầu tư tôn tạo bãi tắm đảo TiTốp, lần lượt xây dựng 2 lầu ngắm cảnh Vịnh trên đảo, đó là những công trình kiến trúc xinh xắn mang dáng dấp đình chùa cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra còn có hệ thống đường lên đỉnh núi ngắm cảnh dài 170 mét, bãi tắm rộng trên 500 m2 cùng với cửa hàng dịch vụ phục vụ du khách thuận lợi hấp dẫn…
Titôp còn là điểm ngắm cảnh lý thú, từ trên những lầu vọng cảnh ta sẽ thấy và cảm nhận được sự bao la, hùng vĩ của VHL; phía Bắc là thành phố Hạ Long với núi Bài Thơ và cầu Bãi Cháy vắt ngang qua Vịnh Cửa Lục, phía Nam và Đông Nam là dãy đảo Bồ Hòn như bức tường thành sững sững, phía Tây và Tây Nam là sự trùng điệp đảo núi của hòn Soi Sim, hòn Dầm Nam, hòn Đại Thành…
Từ mỗi hướng nhìn đảo có hình dạng biến đổi khác nhau: mặt phía Bắc đảo mang hình dáng của một tháp Karst với vách đá dựng đứng, mặt phía Đông giống như Kim tự tháp Ai Cập. Đảo còn được điểm xuyết trên mình một thảm thực vật phong phú, một dải cát vàng quanh chân cùng hệ thống đường dẫn lên đỉnh uốn lượn.
Sự đa dạng về sinh học tại khu vực đảo Titôp không cao, các loài động thực vật tự nhiên trên đảo phân bố chủ yếu trên sườn núi và vách. Thảm thực vật tập trung chủ yếu trên sườn thoải Đông Nam và Tây Nam. Đặc biệt để bảo tồn giá trị đa dạng sinh học, ban quản lý vịnh Hạ Long đã chuyển vị một số cây cọ Hạ Long từ đảo Cát Lán, Hang Trai sang đảo Ti Tốp. Đây là một trong 17 loài thực vật đặc hữu vịnh Hạ Long. Điểm khác biệt của Cọ Hạ Long với những loài cọ thông thường là có hoa mọc thành cụm đuôi sóc vươn cao hơn tán lá.
Đảo Titôp là một trong những di tích lưu niệm về chủ tịch Hồ Chí Minh đối với VHL nói riêng và đối với tỉnh Quảng Ninh nói chung. Bác Hồ đã hai lần đến thăm đảo, lần thứ nhất vào năm 1957, nhân dịp về thăm vùng mỏ Quảng Ninh, lần thứ hai vào ngày 22/1/1962, Bác cùng với các anh hùng lao động Việt Nam và anh hùng phi công vũ trụ Liên Xô - Giecman Titop. Mùa hè năm 1997, Giecman Titop đã quay lại thăm hòn đảo mang tên ông. Tháng 9/2015, Tỉnh Quảng Ninh đã khánh thành tượng đài bán thân Giecman Ti-tốp trên đảo. Dự án này thể hiện tình hữu nghị Việt - Nga và tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhà du hành vũ trụ Giecman Ti-tốp.
Đảo Soi Sim: Nằm phía Tây Nam, cách Cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 11km. Đảo Soi Sim nằm trong khu vực trung tâm Di sản Hạ Long, nơi tập trung rất nhiều điểm tham quan đảo TiTốp - hang Sửng Sốt - hang Bồ Nâu - động Mê Cung. Trước kia người dân địa phương tìm thấy trên đảo mọc rất nhiều cây Sim - một loại cây bụi có quả màu tím, vì vậy đảo được gọi tên là Soi Sim.
Đảo Soi Sim có diện tích khoảng 66.300m2, có hai đỉnh cao trên 100m ở giữa võng xuống như hình dáng yên ngựa. Nơi đây có bãi tắm đẹp và là điểm ngắm cảnh bao quát khu Di sản. Đảo có cấu tạo địa chất đặc biệt với 2/3 bao phủ bởi đất feralit và đất phong hóa đỏ vụn. Đảo Soi Sim là một trong số đảo đất hiếm hoi nằm trong khu vực trung tâm của Di sản, trên đảo có hệ sinh thái phong phú và ở vị trí trung tâm khu Di sản, đảo soi Sim là địa điểm hấp dẫn thu hút du khách đến tham quan thắng cảnh, tắm biển, du lịch sinh thái trên Vịnh Hạ Long.
Hang Tiên Ông: Nằm ở trung tâm hòn Cái Tai, thuộc khu vực đảo Hang Trai, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 20km về phía Đông Nam. Hang nằm ở độ cao 5m so với mực nước biển, tổng chiều dài khoảng 156m. Hang có một cửa, dạng vòm, rộng 50m, cao 13m, quay về hướng Tây Bắc.
Hang có cấu trúc tương đối phức tạp với nhiều ngách nhỏ, măng nhũ đá đẹp. Đặc biệt, trong hang có một măng đá giống hình ông già với khuôn mặt phúc hậu, râu tóc dài, người dân vẫn hình tượng như một nhân vật huyền thoại “tiên ông” có phép màu, vì vậy người dân đã gọi tên là hang Tiên Ông. Hang Tiên Ông còn có tên gọi khác là hang Rền (theo dân gian), hang Đục (theo nhà khảo cổ học Thụy Điển Andersson).
Hang Tiên Ông là một trong những hang động đẹp của vịnh Hạ Long. Hang được chia làm 2 phần và ngăn cách bởi khối thạch nhũ lớn giữa hang, nửa phía ngoài là khu vực được chiếu sáng phủ đầy trầm tích nhuyễn thể không kết khối, nửa phía trong từ phần cột nhũ hắt vào khá bằng phẳng.
Hang Tiên Ông thuộc nhóm hang nền karst cổ, hóa thạch, dạng ống, được hình thành do quá trình xâm thực mở rộng ngang tại mực cơ sở. Các pha chuyển động tạo sơn Indosini và Anpi đã tạo các vết nứt nẻ, dập vỡ, đường đứt gãy trong các khối đá vôi. Quá trình karst phát triển trong thế Pleixtoxen giữa - muộn và Holoxen đã làm bào mòn, hoà tan đá vôi, mở rộng hệ thống khe nứt, hình thành nên hang Tiên Ông.
Những khối đá vôi đổ sập trong hang là kết quả của các chấn động địa chất quy mô nhỏ, cục bộ. Hệ thống măng nhũ đá thuộc ngăn thứ nhất hầu hết đã ngừng phát triển, các măng nhũ đều bị phủ một lớp rêu mốc do có ánh sáng chiếu vào. Tuy nhiên, hệ thống măng nhũ đá các ngăn còn lại đều vẫn đang phát triển do có nước chảy từ các khe nứt từ trần hang xuống và được ngăn cách với ánh sáng bên ngoài.
Khu vực hang Tiên Ông tập trung các loài động thực vật thuộc 3 hệ sinh thái chính đó là: Hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái hang động và hệ sinh thái các thảm thực vật trên đảo. Phía trên cửa hang chỉ phân bố thưa thớt một số loài thực vật nhỏ có rễ bám vào các kẽ đá nhỏ, dễ nhận thấy nhất là khổ cử đại tím với những chùm hoa màu tím buông rủ xuống phía dưới. Thảm thực vật trước cửa hang có sự phong phú về thành phần loài: tầng dưới chủ yếu là trúc và một số cây bụi nhỏ, phủ bên trên là một số dây leo. Sâu vào trong cửa hang, nơi có lớp đất dày hơn là sự xuất hiện của một số loài thực vật như khổ cử đại móc lá mềm có hoa màu tím nhạt, thường nở vào mùa hè, chúng tập trung thành cụm vài chục đến vài trăm cá thể; bên cạnh đó, còn có dương xỉ, sảng, khoai nưa hoa chuông với số lượng ít. Môi trường trong hang tương đối ẩm thấp là điều kiện thuận lợi để một số loài sinh vật hang động sinh sống. Đặc biệt ở đây có một quần thể dơi thường xuyên đến trú ngụ. Hang Tiên Ông cũng là một trong những điểm đã được các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu về giá trị động vật hang động Vịnh Hạ Long.
Vùng biển tại khu vực hang Tiên Ông ít chịu những ảnh hưởng của những ô nhiễm ven bờ, do đó có những thuận lợi về độ mặn và độ trong của nước để các loài san hô phát triển tạo điều kiện sinh sống cho một số loài động vật biển có giá trị như: Tôm, mực, cá mú, cá song... một số động vật thân mềm sống bám ven chân đảo như: Hà đá, cua đá, ốc…
Hang Tiên Ông được nhà khảo cổ học J.G Anderson người Thụy Điển phát hiện và nghiên cứu từ năm 1938. Và để tìm hiểu rõ hơn về giá trị lịch sử văn hóa của hang, tháng 11 năm 2007, Ban quản lý vịnh Hạ Long đã phối hợp với Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Sở Văn hoá Thông tin Quảng Ninh (nay là Sở Văn hoá, thể thao và Du lịch) tiến hành khai quật di chỉ khảo cổ hang Tiên Ông. Đoàn đã tiến hành mở 4 hố khai quật và 01 hố thám sát với tổng diện tích là 42m2. Theo đánh giá của các nhà khảo cổ học thì hang Tiên Ông chính là một trong những điểm cư trú, sinh sống của người Việt cổ thuộc nền văn hoá Soi Nhụ trên vịnh Hạ Long. Di tích có niên đại cách ngày nay khoảng từ 10.000 - 8.000 năm, thuộc giai đoạn văn hóa Hoà Bình - Bắc Sơn. Di vật thu được qua đợt khai quật gồm có đồ đá, đồ xương và đồ gốm. Đồ đá chủ yếu là đá vôi với những chiếc rìu, bôn, mũi nhọn và qua nghiên cứu cho thấy, cư dân nguyên thủy đã sử dụng các kỹ thuật như ghè một mặt và hai mặt, kết hợp với kỹ thuật chặt bẻ, có dấu vết của kỹ thuật mài. Bên cạnh đó, cư dân ở đây còn sử dụng cả cuội, thạch nhũ, vỏ nhuyễn thể để chế tác công cụ dù không nhiều nhưng đã cho thấy tính năng động trong ứng xử thích nghi với môi trường sống của cư dân hang Tiên Ông. Phía dưới chân cột đá lớn là một lượng lớn vỏ nhuyễn thể nước ngọt còn sót lại giống với cồn ốc chạy dọc theo vách hang phía ngoài. Các vỏ ốc nước ngọt ở đây to hơn so với các hang Mê Cung và hang Trống, chứng tỏ thời kỳ cư dân tiền sử nơi đây sinh sống có khí hậu mát mẻ và mưa nhiều, khiến nguồn thức ăn phong phú hơn. Bên cạnh việc khai thác nguồn thức ăn từ các con sông, suối, cư dân tiền sử nơi đây đã làm quen và khai thác các sản vật từ biển. Đây chính là một trong những tiền đề quan trọng cho các nền văn hóa biển nối tiếp ở giai đoạn sau phát triển như: Văn hoá Cái Bèo và Văn hoá Hạ Long.
Hồ Ba Hầm: Nằm trên dãy đảo Đầu Bê, cách Cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 25km. Đảo Đầu Bê là 1 trong 3 đỉnh của tam giác Di sản, nơi đặt biểu tượng Di sản thiên nhiên thế giới. Hồ Ba Hầm là một hệ thống gồm 03 trũng biển có tiết diện tròn,vách dựng đứng, thông với nhau từng đôi qua qua một hang luồn hẹp. Vì vậy người ta gọi tên là Hồ Ba Hầm.
Cuốn sách Vịnh Hạ Long (Baie de Ha Long) do Công ty Du lịch Đông Dương xuất bản năm 1930, bằng tiếng Pháp đã đề cập đến địa danh Hồ Ba Hầm (Les trois cirques). Theo đó, Hồ Ba Hầm là một hệ thống gồm ba trũng biển, có các vách dựng đứng, thông với nhau từng đôi một qua ba hang hàm ếch biển hẹp, uốn khúc quanh co giống như những đường hầm nên gọi là Hồ Ba Hầm.
Cửa hang đầu tiên hình bán nguyệt, hơi loe hơn so với lòng hang. Hang có chiều dài khoảng 150m, nơi rộng nhất khoảng 30m và nơi hẹp nhất khoảng 10m. Nền hang bị ngập nước hoàn toàn, khi thủy triều thấp nền hang sâu hơn so với mặt nước khoảng 2m. Trần hang dạng mái phẳng xen lẫn dạng vòm, khi thủy triều lên cao, trần hang bị ngập gần như hoàn toàn. Cuối hang có 2 khối đá chắn ngang chia cửa ra thành 3 lối nhỏ, hang thông vào hồ karst thứ nhất. Đây là một hồ kín, rộng khoảng 850m2, chiều cao các vách xung quanh khoảng 70m - 100m.
Phía Nam của hồ là hang thứ hai, có cửa thấp hơn hang thứ nhất, khi triều xuống cửa hang cao khoảng 3m so với mực nước biển.
Hang thứ hai có chiều dài khoảng 60m, nơi rộng nhất khoảng 20m, trần hang phẳng cắt vào khối đá vôi, nhũ đá ít phát triển chỉ có một vài khối nhũ nhỏ với đường kính khoảng 1m rủ xuống. Vách hang là đá gốc bị hà, ốc bám kín. Hang này thông vào hồ karst thứ 2 - một hồ lớn có diện tích khoảng 7500m2, đợc khép kín bởi hệ thống đảo đá với sờn thoải xen lẫn các sờn có độ dốc lớn.
Phía Đông Nam của hồ karst thứ nhất là hang thứ ba. Hang có cửa hẹp, chiều rộng 9m, dài 40m, trần dạng mái phẳng cắt vào núi đá vôi, nhũ đá kém phát triển, khi thủy triều xuống thấp, trần hang cao hơn mặt nước biển khoảng 2m. Vách hang lộ đá gốc và bị hà bám kín. Nền hang thấp, khi triều xuống lộ đá gốc và đá tảng. Hang này thông vào hồ karst thứ 3. Hồ có dạng hình tròn, diện tích khoảng 600m2, được bao bọc bởi các vách đá.
Vào kỷ đệ tứ, thế Pleixtoxen khi nước biển xâm thực vùng đá vôi Hạ Long, các đồi và tháp đá bị biến đổi hình dạng do xâm thực biển và quá trình này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Khi mực nước biển ổn định thì đá vôi bị ăn mòn dần và ngày càng mở rộng tạo ra các vách biển. Quá trình ăn mòn hoá học, hoà tan, mở rộng khe nứt của thuỷ triều, sóng và nước mưa phát triển cùng quá trình hoạt động kiến tạo với quy mô nhỏ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình mở rộng ngấn biển, sập đổ và khoét sâu tạo thành các đường thông qua chân đảo.
Hồ Ba Hầm là một dạng hang kiểu ngấn hàm ếch biển, nơi đới xâm thực ngang cuối cùng là mực nước biển. Do tác động mài mòn của nước biển, các khối đá bị khoét dần tạo ra các ngấn hàm ếch, quá trình hòa tan đá vôi đã làm cho các ngấn hàm ếch càng sâu thêm và mở rộng thành hang động hay mạnh hơn xuyên qua các núi đá vôi vào các phễu Karst ngập chìm mà hiện nay là các hồ nước thủy triều. Các hang thông qua các đảo thuộc khu vực Hồ Ba Hầm có trần dạng mái phẳng cắt vào các khối đá vôi là kết quả của quá trình mài mòn, hòa tan của nớc biển cùng với nó là quá trình sập đổ các lớp đá trên trần hang tạo ra các mực ăn mòn. Do đá vôi ở đây có dạng khối, ít bị dập vỡ nên ở trần các hang hàm ếch biển hệ thống măng nhũ đá cũng kém phát triển, chỉ đôi chỗ có nhũ đá ngắn, nhỏ.
Hồ Ba Hầm nổi bật trong không gian rộng lớn, yên tĩnh, với cấu trúc độc đáo của các trũng biển thông nhau bởi những hang hàm ếch biển xuyên qua chân đảo đá vôi có vách thẳng đứng. Thiên nhiên đã khéo tạc những cửa hang hình bán nguyệt, mở ra dới chân đảo thông qua một đường hầm dài, uốn khúc quanh co, xen vào đó là từng chùm nhũ đá với nhiều hình thù kỳ lạ, tiếng nớc nhỏ tí tách để vào trũng biển tròn, nớc trong phẳng lặng. Khi thủy triều lên các hang bị ngập nước tạo nên các bức tường thành ngăn cách các hồ nước bên trong với thế giới bên ngoài càng tôn nên vẻ bí ẩn và quyến rũ.
Điểm nhấn được tạo hoá thêm vào cảnh sắc của Hồ Ba Hầm đó là thảm thực vật bốn mùa xanh tốt trên các sườn núi màu xám sáng, phía dưới làn nước trong xanh là cuộc sống sôi động của các loài hải sản, tạo nên vẻ đẹp kỳ vĩ và không gian thơ mộng nơi đây.
Đây là nơi có hệ sinh thái đặc trưng của vịnh Hạ Long: Hệ sinh thái tùng, áng. Các hồ nước được thông với biển bằng những cửa hang ngầm. Tại đây, môi trường nước ổn định và không có sóng. Đặc biệt rất trong sạch chính vì vậy, hệ sinh vật nơi đây phát triển rất mạnh và mang những nét độc đáo riêng. Các loại sinh vật sống ở đây như sao biển; cá; một số loài thân mềm; vẹm xanh; đồi mồi …, ngoài ra, còn có san hô, rong, tảo, hệ động thực vật đáy, hình thành nên các quần xã vô cùng phong phú.Các đảo đá cao vút, vách thẳng đứng, những thung lũng Karst lớn được hình thành và che phủ những lớp thảm thực vật rừng cây nhiệt đới vô cùng phong phú về số lượng giống loài. Hệ thực vật này có một đặc điểm chung là: loài cây thấp, mọc thành bụi có sức sống mãnh liệt với hình dáng Bonsai rất đẹp. Hồ Ba Hầm Là nơi phát hiện 03 trong 17 loài thực vật đặc hữu của Vịnh Hạ Long: hài vệ nữ hoa vàng; cọ Hạ Long; thiên tuế Hạ Long.
Trước cửa hang là một vụng kín gió nên trước đây là nơi neo đậu, sinh sống của một nhóm cộng đồng ngư dân trên vịnh Hạ Long. Họ chính là chủ nhân lưu giữ nhiều phong tục truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian độc đáo của vùng biển Hạ Long như: hát giao duyên, hát đám cưới, tục giở mũi thuyền, tục trồng cây nêu....
Phía trước Hồ Ba Hầm có đền Bà Men đợc xây dựng cách ngày nay khoảng trên 200 năm. Hiện trong đền còn có tượng Bà Men và các vị thánh Mẫu. Đây cũng là điểm sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng dân gian của ng dân vùng biển Hạ Long - Cát Bà.
Gần đó là lạch Cửa Vạn (còn gọi là vũng Tàu Đắm), nơi hiện còn xác chiếc tàu Săng-ti-ly của Pháp bị đắm năm 1905 do đâm vào đá ngầm.
Đền Bà Men: Theo truyền thuyết ngày xưa của khu vực miền Trung có 6 người phụ nữ đi biển. Lúc đó trời yên biển lặng, tự nhiên có 1 con sóng lớn nổi lên cuốn cả người và thuyền xuống biển, xác các bà trôi dạt ra vùng biển Hạ Long - Cát Bà, mỗi người một nơi. Vụng nước phía Tây Bắc đảo Đầu Bê là 1 trong 6 địa điểm có xác trôi dạt vào, bà có tên là Men. Ngư dân địa phương đã tổ chức mai táng, lập miếu thờ thắp hương cầu khấn rất linh ứng, từ đó suy tôn bà là vị thần bảo hộ cho họ.
Theo ngư dân sinh sống trong khu vực thì đền Bà Men được xây dựng cách ngày nay ít nhất 200 năm. Trước năm 1983, đền vẫn còn là 1 ngôi miếu lợp cỏ tranh nằm sát chân núi, bên trong miếu có đặt 1 tượng phụ nữ, phía sau miếu có 1 ngôi mộ. Ngôi mộ này vẫn ở nguyên vị trí ban đầu qua các lần sửa chữa xây dựng đền. Năm 1983 do thiên tai xảy ra ngôi miếu đã bị hư hỏng, ông Nguyễn Văn Miên và một số ngư dân khu vực vùng Cao Minh (đảo Cát Bà), vùng Hà Nam-Yên Hưng đứng ra xây dựng tôn tạo lại và mở rộng thêm. Hiện nay, trong đền ngoài tượng Bà Men còn có các vị thánh Mẫu, tượng Quan lớn tam phủ (Đạo mẫu). Đền được xây dựng theo kiến trúc chữ Đinh, chiều dài 70m, chiều ngang 20m, tọa lạc trên một bãi cát bên vạ núi, cao khoảng 3m so với mực nước biển. Mặt chính của đền hướng về phía Đông Bắc.
Lễ hội truyền thống của đền Bà Men hàng năm được tổ chức vào ngày 19 và 20 tháng giêng âm lịch. Đây là thời gian ngư dân vùng Hạ Long, Cát Bà tưởng nhớ về công đức của Bà. Cứ vào đầu năm, ngư dân đến đền cầu mong sức khỏe, vạn sự tốt lành, làm ăn may mắn...Cuối năm, vào tháng Chạp lại mang lễ đến để tạ Bà đã phù hộ 1 năm sức khỏe, may mắn, được mùa.Cũng như các lễ hội truyền thống khác, lễ hội đền Bà Men cũng có 2 phần: phần lễ và phần hội. Trước ngày diễn ra lễ hội, ngư dân tiến hành dọn dẹp, treo đèn hội, lập ban thờ. Chủ tế phải giữ gìn sạch sẽ và ăn kiêng. Kết thúc phần lễ, ngư dân nô nức tham gia các trò chơi như đá bóng trên cát, đua thuyền rồng. Hội đua thuyền được chia làm 4 đội, đội nào thắng sẽ nhận được phần thưởng. Bên cạnh đó, theo quan niệm của những ngư dân, nếu đội nào giành được chiến thắng sẽ gặp may mắn cả năm, đánh bắt được mùa.
Công viên Hòn Xếp: Hòn Xếp nằm ở trung tâm công viên Hòn Xếp. Cấu trúc hòn dạng tháp, cao khoảng 21m, gồm các khối đá to, vuông vắn đều đặn xếp chồng lên nhau thành từng hàng, từng lớp rừ rệt, giống như một kim tự tháp Ai Cập được dựng lên giữa biển khơi.
Hòn Xếp là một khối kiến trúc tổng thể gồm nhiều khối đá to, vuông vức “xếp” chồng lên nhau thành từng hàng, từng lớp rõ rệt giống một kim tự tháp Ai Cập được dựng lên giữa không gian tĩnh lặng.
Vẻ đẹp cảnh quan khiến người xem ngỡ ngàng trước sự sắp xếp, điêu khắc khéo léo của tự nhiên với nhiều đường vân trang trí ngang dọc một cách đều đặn như thể có bàn tay con người sắp đặt. Đôi chỗ được tô điểm bởi một số loài thực vật tạo nên các nét chấm phá mềm mại trên một khối đá giữa mặt nước trong xanh của Vịnh Hạ Long.
Hòn Xếp là tháp karst kiểu Phong Linh, có thành phần chính là đá vôi tuổi Cacbon - Pecmi (359 - 252 triệu năm), cấu tạo phân lớp ngang, màu xám sáng đến xám đen, dày từ 0,5m - 3m với bề mặt nghiêng 00 - 50. Một đặc điểm quan trọng của hòn Xếp là các lớp đất đá ở đây xếp chồng lên nhau theo từng lớp riêng biệt, rõ ràng, nằm trên một mặt phẳng ngang và đây cũng là cấu trúc chung của khu vực quanh hòn Xếp. Điều này chứng tỏ hoạt động kiến tạo khu vực này tương đối yếu và ổn định. Xen kẽ các lớp đá là các lớp trầm tích màu nâu đỏ. Trên bề mặt của tháp karst, các lớp trầm tích bị nước mưa xói mòn làm sập đổ một phần các lớp đá địa hình carư (đá tai mèo) phát triển rất yếu do bề mặt khối đá vôi ít bị dập vỡ. Phía Tây Nam có 1 khối đá nhỏ đã bị tách nghiêng ra khỏi tháp karst do chân khối đá đã bị nước biển ăn mòn làm mất cân bằng trọng lực.
Khu vực Hòn Xếp với đặc điểm là vách núi đá vôi thẳng đứng, xiên và phân lớp, tập trung chủ yếu các loài động thực vật sinh sống trong các hệ sinh thái rừng thường xanh trên núi đá vôi. Trên thân của hòn có một lớp đất mỏng được tạo thành từ quá trình phong hóa đá vôi tạo điều kiện thuận lợi cho thảm thực vật cỏ tranh phát triển, tập trung chủ yếu ở phía Đông Bắc, đây là loài cây tàn lụi theo mùa, héo khô hàng loạt vào mùa đông tạo thành một thảm cỏ màu đỏ hung. Ngoài ra còn có một số cây bụi nhỏ thuộc họ Si là loài thực vật sống xanh tốt quanh năm.
Khu vực Vông Viêng: Nằm cách cảng tàu du lịch Hạ Long khoảng 20km về phía đông bắc. Trước kia, đây là 1 trong những khu vực cộng đồng ngư dân sinh sống có truyền thống lâu đời trên vịnh Hạ Long.
Hiện nay theo Quyết định số 2178/QĐ-UBND ngày 28/8/2012 của Uỷ ban nhân dân Tỉnh “V/v phê duyệt phương án di dời đối với nhà bè trên vịnh Hạ Long” dân cư ở làng chài đã được di dời lên bờ và tái định cư tại khu tái định cư làng chài phường Hà Phong.
Để bảo tồn một số giá trị văn hóa tiêu biểu của ngư dân, tại khu vực Vông Viêng sẽ triển khai dự án: Phục dựng một số nghề truyền thống: mô hình nghề đóng thuyền, đan lưới và chế tác một số ngư cụ truyền thống (lờ, mai đào sá sùng, xỉa ngán, te kìm, búa đánh hà, câu quay, câu vằng…) kết hợp trải nghiệm cuộc sống đánh bắt hải sản cùng ngư chài, “Đánh cá cùng ngư dân” bằng công cụ truyền thống; Xem biểu diễn nghệ thuật múa rối nước kết hợp dịch vụ lưu trú, ăn uống; tham quan khu nuôi trai lấy ngọc, bán đồ trang sức ngọc trai.
Khu vực này được đánh giá vẫn còn nguyên vẻ đẹp hoang sơ. Đặc biệt đến Vông Viêng, du khách có thể chiêm ngưỡng hình ảnh một chiếc “cổng làng”, đó là một vòm đá khổng lồ tuyệt đẹp được thiên nhiên đẽo tạc như để chào đón du khách.
Trung tâm văn hóa nổi Cửa Vạn: Nằm trong vụng Tùng Sâu cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy 20km về phía nam Vịnh Hạ Long. Trung tâm Văn hoá nổi Cửa Vạn được khánh thành vào tháng 5/2006, thuộc dự án Bảo tàng sinh thái Hạ Long, là nơi trưng bày, giới thiệu các tài liệu, hiện vật, hình ảnh về di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của ngư dân Hạ Long. Đến với Trung tâm, du khách sẽ được trải nghiệm cùng với cuộc sống, hoạt động đánh bắt hải sản truyền thống của ngư dân Hạ Long.
Chức năng của Trung tâm: (Tuyên truyền giáo dục cộng đồng và du khách tham gia bảo vệ giữ gìn môi trường Vịnh Hạ Long; Bảo tồn giới thiệu các giá trị văn hoá của làng chài Cửa Vạn; Tổ chức các buổi sinh hoạt văn hoá và giao lưu giữa ngư dân làng chài Cửa Vạn với các làng chài khác trong khu vực, với cộng đồng và du khách; Thu hút học sinh sinh viên các nhà khoa học đến tham quan học tập, nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm; Trưng bày, trình diễn các loại hình văn hoá bản địa phục vụ du khách; Tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống kinh tế xã hội cho ngư dân làng chài Cửa Vạn.
Những hoạt động chính của Trung tâm: Sinh hoạt cộng đồng: nơi diễn ra các buổi sinh hoạt văn hoá giữa ngư dân làng chài Cửa Vạn với nhau và với các làng chài khác;Trưng bày triển lãm: gồm có trưng bày cố định và trưng bày chuyên đề. Trưng bày cố định giới thiệu về đời sống vật chất và tinh thần của ngư dân Cửa Vạn. Phần trưng bày chuyên đề có sự thay đổi theo từng sự kiện, thời điểm lịch sử và cuộc sống hàng ngày của cộng đồng ngư dân; Thuyết minh, hướng dẫn khách tham quan; giáo dục truyền thống, nghiên cứu và phổ biến các tri thức khoa học; Trình diễn trình chiếu: Là nơi trình diễn loại hình văn hóa phi vật thể, các làn điệu hát giao duyên độc đáo đặc sắc của cộng đồng ngư dân; nghề nghiệp kiếm sống các nghề thủ công truyền thống. Chiếu các bộ phim tài liệu, phóng sự...về cuộc sống của bà con ngư dân vạn chài Hạ Long; Tổ chức các buổi hội thảo, toạ đàm theo từng nội dung, chuyên đề; Các hoạt động dịch vụ khác).
Núi Bài Thơ: Núi Bài Thơ nằm ở trung tâm thành phố Hạ Long, bên bờ VHL xinh đẹp, có độ cao khoảng 200m. Thời phong kiến, núi Bài Thơ nằm ở vị trí trọng yếu trên trục đường giao thông huyết mạch, cả đường bộ và đường thủy.
Từ các triều đại phong kiến xưa, núi Bài Thơ là một trạm đồn trú quan trọng của dải đất biên thùy này. Những người lính ở đây có nhiệm vụ đêm đêm treo ngọn đèn lồng trên đỉnh núi báo hiệu sự bình yên. Những khi có biến, người lính đốt đống lửa to (bằng phân chó sói trộn với củi khô) để những cột khói bốc cao lên báo tin cho các trạm gác tiếp theo và các vùng lân cận. Bởi thế trong lịch sử núi có tên gọi là núi Rọi Đèn, tên chữ là Truyền Đăng.
Năm 1468, tháng 2 năm Quang Thuận thứ 9, Vua Lê Thánh Tông trong chuyến tuần du vùng Đông Bắc cảm kích trước vẻ đẹp của mây trời non nước Hạ Long, nhà vua đã ứng tác một bài thơ và cho đề vào vách núi. Từ đó núi có tên là núi Đề Thơ, nay gọi là núi Bài Thơ. Bài Thơ của vua Lê Thánh Tông khẳng định bờ cõi nước Việt là bất khả xâm phạm, đó là chân lý đã được khẳng định và một giai đoạn mới của đất nước bắt đầu bằng việc xây dựng củng cố kinh tế, mở mang dân trí, ngưng việc binh đao. Ngày nay, bài thơ khắc trên vách núi là di tích lịch sử văn hóa của dân tộc, nâng hình ảnh núi Bài Thơ thành biểu tượng văn hóa, niềm tự hào của người dân thành phố Hạ Long.
Nhận nước trăm sông sóng cuộn đầy
Núi bày cờ thế, biếc liền mây
Xưa theo người khác luôn bền trí
Giờ đã tung hoành một chớp tay
Đế Chủ điệp trùng quân hổ mạnh
Hải Đông đã tắt khói lang bay
Trời Nam muôn thuở non sông vững
Yển vũ tu văn dựng nước này.
261 năm sau, chúa Trịnh Cương nhân một chuyến tuần du đến An Bang, sau khi đọc bài thơ của vua Lê Thánh Tông đã cảm kích và họa lại trên vách đá những lời tha thiết:
“Mênh mông sông tụ, triều lên
Núi in bóng nước, nước in bóng trời
Bàn tay tạo hóa tuyệt vời
Thần kỳ nhuần thấm lòng người bấy nay
Giặc Nguyên xưa bắt ở đây
Giờ hoa xuân nở hương bay quanh người
Cuộc vui ai cũng vui cười
Các quan ca tụng biển trời lặng trong”
Đến thời Nguyễn, Nguyễn Cẩn - quan tuần phủ Quảng Yên đồng thời là nhà thơ có bút danh Hương Khuê, có 2 bài thơ “Đề núi Truyền Đăng” và “Trùng đề Truyền Đăng sơn”, nay chỉ thấy bài thứ 2. Ngoài ra còn có nhiều bài thơ khác của những tao nhân mặc khách đã được đề trên núi Bài Thơ.
Sáng ngày 1/5/1930, nhân dân Hòn Gai được chứng kiến lần đầu tiên lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên đỉnh núi Bài Thơ, báo hiệu giai đoạn đầu của giai cấp công nhân vùng mỏ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Người treo cờ là đảng viên trẻ Đào Văn Tuất tức Nguyễn Thành, công nhân lái xe hoả Nhà sàng Ba Đèo, nhà ở chân núi Bài Thơ. Người may cờ là chị Cả Khương tức Nguyễn Thị Lưu, tức Phan Thị Khương. Hiện nay, sau 84 năm (1930 - 2014) lá cờ Tổ quốc vẫn hàng ngày tung bay trên đỉnh núi Bài Thơ.
Trên đỉnh núi có trạm gác phòng không của thị xã và chùm còi báo động, có trận địa pháo 12,7 ly của tự vệ Xí nghiệp Tuyển than Hòn Gai đã tham gia chiến đấu suốt thời kỳ giặc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc (1964 - 1974). Tại các hang ở sườn phía Đông Bắc núi Bài Thơ là nơi đặt Trung tâm Điện chính thuộc Bưu điện Quảng Ninh với tổng đài và cột ăngten Viba. Hệ thống loa truyền thanh đặt trên sườn núi Bài Thơ là nơi trực tiếp truyền mệnh lệnh chiến đấu của Hội đồng phòng không tỉnh. Gần 100 cán bộ của Trung tâm Bưu chính (với tổ máy, tổ cơ vụ, tổ dây, tổ máy) đã kiên cường bám trụ ở đây để đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt. Năm 2000, Bộ Văn hóa Thông tin có thêm Quyết định số 30 QĐ/VH, ngày 24/11/2000 công nhận Trung tâm Điện chính Bưu điện Quảng Ninh là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Một số hang động trong núi cũng được sử dụng để làm nơi sản xuất, cư trú, trạm cấp cứu, cửa hàng, lớp học và trụ sợ của nhiều cơ quan, xí nghiệp trong thời kỳ đế quốc Mỹ chống phá.
Ngày nay núi Bài Thơ đang trở thành một điểm du lịch hấp dẫn đang được đầu tư, tu bổ tôn tạo và khai thác để phục vụ nhu cầu du lịch và văn hóa.
Khu văn hoá núi Bài Thơ sẽ là một địa điểm tham quan du lịch lý tưởng liên kết với các khu du lịch Tuần Châu, Bãi Cháy, Vịnh Hạ Long và các khu di tích lịch sử khác, tạo thành địa điểm lý tưởng cho du khách tham quan, vãn cảnh, học tập. Khu văn hoá núi Bài Thơ sẽ trở thành địa điểm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng và là nơi giáo dục truyền thống yêu nước, “uống nước nhớ nguồn” cho thế hệ sau.
Việt Nam tham gia công ước quốc tế về bảo vệ Di sản thế giới
Trước tình trạng nhiều Di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới đang có nguy cơ bị phá hoại bởi những nguyên nhân khác nhau như chiến tranh, sự phát triển quá nóng về kinh tế và những biến động xã hội. Sự xuống cấp đó làm nghèo đi tài sản của loài người. Trong khi đó việc bảo vệ các Di sản ở cấp quốc gia, đặc biệt là tại các nước đang phát triển thường gặp nhiều khó khăn vì thiếu phương tiện kỹ thuật và tài chính. Trước những hiểm hoạ ấy, toàn thể cộng đồng quốc tế phải có trách nhiệm tham gia bảo vệ các khu Di sản, trước hết bằng cách tăng cường trợ giúp chứ không phải làm thay cho các nước chủ nhà. Công việc đó chỉ có thể thực hiện được thông qua các điều khoản cụ thể và có hiệu lực của công tác bảo tồn Di sản,biến nó thành một hệ thống qui phạm có hiệu lực trên phạm vi quốc tế. Với mục đích đó ngày 16 tháng 11năm 1972, tại kỳ họp thứ 17 của Đại hội đồng UNESCO tại Pari, Công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới đã được thông qua. Công ước này gồm 8 chương, 33 điều.
Năm 1987, Chính phủ Việt Nam đã chính thức phê chuẩn và tham gia ký kết Công ước quốc tế về bảo vệ Di sản thế giới, mở đầu việc hoà nhập vào những hoạt động quốc tế về việc bảo tồn, phát huy các giá trị Di sản ở Việt Nam.
Theo Công ước này, một khu vực được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới khi nó chứa đựng một hoặc 1 số tiêu chuẩn sau:
1) Mang dấu ấn tiêu biểu về các giai đoạn chính của lịch sử trái đất bao gồm: quá trình phát triển cuộc sống, ý nghĩa của quá trình phát triển địa chất như: phát triển địa hình, hoặc ý nghĩa về địa chất học và địa văn học tiêu biểu.
2) Mang dấu ấn tiêu biểu về sự hình thành sinh thái, đa dạng sinh học qua các quá trình xâm thực và phát triển lục địa, nước ngọt, bờ biển, hệ sinh thái biển và quần thể động thực vật.
3) Có cảnh quan tự nhiên đẹp, đặc sắc độc đáo, mang giá trị thẩm mỹ cao.
4) Là nơi cư trú tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, lưu giữ các loài động thực vật độc đáo, quý hiếm, có giá trị ngoại hạng về mặt khoa học và bảo tồn.
Hai lần Vịnh Hạ Long được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới
Lần thứ nhất: Quá trình khảo sát, nghiên cứu, chuẩn bị hồ sơ khoa học đề nghị công nhận: Ngày 21/12/1991 Chính phủ Việt Nam đã cho phép Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam và Bộ Văn hoá Thông tin phối hợp với một số địa phương xúc tiến lập hồ sơ khoa học giới thiệu 5 Di sản văn hoá và thiên nhiên trong đó có Vịnh Hạ Long để UNESCO xem xét, công nhận vào danh mục Di sản thiên nhiên thế giới.
Đối với Vịnh Hạ Long, sau khi được Bộ VHTTvà UBND tỉnh Quảng Ninh, Sở Văn hoá -Thông tin tỉnh QN đã cùng các cơ quan chuyên môn lập hồ sơ trình UNESCO và phải đề cập đến nhiều vấn đề, trong đó quan trọng nhất là phải chứng minh được giá trị toàn cầu của Di sản.Tháng 10/1993 với sự hỗ lực của Sở Văn hoá -Thông tin QN và sự giúp đỡ tận tình của các ngành liên quan, hồ sơ về Vịnh Hạ Long cơ bản được hoàn tất và chuyển đến trung tâm Uỷ ban UNESCO ở Pari để xem xét.
Quá trình thẩm định: Ngay sau khi nhận được hồ sơ, Uỷ ban Di sản thế giới đã cử các chuyên gia của ICOM (hiệp hội bảo tàng thế giới)và IUCN đến Hạ Long để thẩm định. Từ tháng 2/1994 đến tháng 10/1994 hồ sơ tiếp tục được hoàn tất với quá trình làm rõ thêm ranh giới, tổ chức quản lý, bảo vệ Di sản ...để trình Uỷ ban Di sản thế giới.
Kỳ họp công nhận: Ngày 17 tháng 12 năm 1994 trong kỳ họp thứ 18 tại Phù- kẹt, Thái Lan Uỷ ban Di sản thế giới đã chính thức công nhận Vịnh Hạ Long vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới với giá trị ngoại hạng về mặt thẩm mỹ theo tiêu chuẩn (vii) với số phiếu thuận 100%.
Lần thứ hai: Quá trình khảo sát, nghiên cứu, chuẩn bị hồ sơ khoa học: Việc Vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản thế giới về giá trị cảnh quan vào năm 1994 là một vinh dự lớn với đất nước Việt Nam, đồng thời đó cũng là động lực thúc đẩy cho việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị công nhận giá trị địa chất - một trong những giá trị tiểu biểu, hiếm có trên thế giới của Vịnh Hạ Long. Theo nhận định của ông Hans Friederich Tiến sĩ địa chất học, trưởng văn phòng đại diện của tổ chức IUCN tại Hà Nội-thì giá trị địa chất của Hạ Long là hết sức đặc biệt và hiếm có trên thế giới, nó hoàn toàn đủ điều kiện để công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.
Theo đề nghị của Ban Quản lý Vịnh Hạ Long và IUCN (Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới), tháng 9/1998, GS. TonyWaltham, chuyên gia đầu ngành về địa chất học trường đại học Trent Nottingham – Vương quốc Anh đã tiến hành nghiên cứu địa chất vùng đá vôi Karst Vịnh Hạ Long trong thời gian 12 ngày, đã khảo sát 47 điểm và 32 hang động trên vịnh. GS. TonyWaltham đã gửi bản báo cáo về giá trị địa chất Vịnh Hạ Long tới Trung tâm Di sản thế giới tại Pari, Văn phòng IUCN tại Thuỵ Sỹ và Hà Nội, Ban Quản lý Vịnh Hạ Long.
Ngày 25/2/1999, sau khi nhận được báo cáo của GS. TonyWaltham, Trung tâm Di sản thế giới đã gửi thư tới UBND tỉnh Quảng Ninh, Uỷ ban quốc gia UNESCO Việt Nam và Ban Quản lý Vịnh Hạ Long yêu cầu xúc tiến việc chuẩn bị hồ sơ trình UNESCO công nhận giá trị ngoại hạng mang tính toàn cầu địa chất cùng Karst Vịnh Hạ Long.
Quá trình thẩm định: Tháng 7 năm 1999, hồ sơ trình Uỷ ban Di sản thế giới công nhận Vịnh Hạ Long về giá trị địa chất đã được hoàn tất. Sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Bộ Văn hóa - Thông tin, Uỷ ban quốc gia UNESCO Việt Nam phê duyệt, Hồ sơ được gửi Văn phòng Trung tâm Di sản thế giới tại Pari. Tháng 12/1999 tại hội nghị lần thứ 23 Uỷ ban Di sản thế giới họp tại thành phố Ma-ra-ket của Marốc, Uỷ ban Di sản thế giới đã chính thức xác nhận vấn đề này và đưa việc thẩm định hồ sơ và công nhận giá trị địa chất Vịnh Hạ Long vào năm 2000. Tháng 3/2000 GS. Erery Hamilton Smith, chuyên gia địa chất của Australia, thành viên của IUCN đã tới Hạ Long để thẩm định tính xác thực của hồ sơ, giá trị địa chất cũng như đánh giá về thực trạng quản lý và đưa ra một số khuyến nghị.
Quá trình công nhận: Tháng 7/2000, trong kỳ họp giữa năm của Văn phòng Trung tâm Di sản thế giới tại Pari đã chính thức đề nghị Uỷ ban Di sản thế giới công nhận Vịnh Hạ Long là Di sản thế giới bởi giá trị nổi bật về địa chất địa mạo.
Kỳ họp công nhận: Ngày 29/11/2000, tại Hội nghị lần thứ 24 của Uỷ ban Di sản thế giới tại thành phố Cairns, bang Queensland, Australia, sau khi nghe thuyết trình của Trung tâm Di sản thế giới và đánh giá của IUCN, Uỷ ban Di sản thế giới đã chính thức công nhận Vịnh Hạ Long là Di sản thế giới lần thứ 2 theo tiêu chuẩn (viii) của Công ước Quốc tế về bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới.
Quá trình vịnh Hạ Long được bầu chọn là 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới
Với tổng số 440 kỳ quan thiên nhiên tại hơn 200 quốc gia, vùng, lãnh thổ trên thế giới đã đăng ký tham gia, cuộc bình chọn đã trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: Bầu chọn từ ngày 7/7/2007 đến ngày 8/8/2008, công bố 77 kỳ quan có số phiếu đề cử cao nhất vào vòng sau. Giai đoạn thứ hai: Từ ngày 8/8/2008 đến ngày 1/2/2009, chọn ra 28 đề cử tiêu biểu. Giai đoạn thứ ba: Từ ngày 1/1/2009 đến ngày 11/11/2011, trong 28 kỳ quan được chọn ra sẽ bầu chọn 7 kỳ quan thiên nhiên có số phiếu cao nhất công bố là kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới.
Ngày 11/11/2011, cuộc bầu chọn đã chính thức khép lại. Đúng 2h 7’ (giờ Việt Nam) ngày 12/11/2011,Vịnh Hạ Long lọt vào danh sách sơ bộ 7 kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới: Rừng mưa Amazon và sông Amazon (Nam Mỹ), vịnh Hạ Long (Việt Nam), thác Lguazu (Argentina, Braxil), đảo Jeju (Hàn Quốc), đảo Komodo (Indonesia), vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa (Philippines) và Núi Bàn (Nam Phi).
Cùng với danh hiệu vịnh Hạ Long hai lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới, sự kiện vịnh Hạ Long trở thành một trong bảy kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới sẽ càng khẳng định thương hiệu, là điểm nhấn, điểm tham quan hấp dẫn của du khách từ khắp nơi trên thế giới. Chắc chắn, khu vực vịnh Hạ Long sẽ là điểm đến tin cậy đối với các nhà đầu tư, liên doanh trên mọi bình diện của thế kỷ 21./.