Đang tải... Vui lòng chờ...

Điệu nhảy Tango - di sản văn hóa phi vật thể của thế giới

Ngày 30/9/2009, UNESCO đã công nhận thêm 76 di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Điệu nhảy Tango đến từ nước Argentina và Uruguay là một trong số đó.

Ra đời và phát triển trong phòng khiêu vũ giản dị của công nhân ở các thành phố Buenos Aires (Argentina) và Montevideo (Uruguay). Cho mãi đến ngày nay, người ta vẫn cảm thấy ngỡ ngàng khi biết rằng tác giả của điệu nhảy chất chứa đầy tâm trạng ấy lại chính là những người "chân lấm tay bùn"! Đó chính là tâm trạng của con người. Tango là điệu nhảy có tính thẩm mỹ cao, được toàn thế giới coi là biểu tượng cho niềm đam mê lãng mạn của người Mỹ Latin.

Đặc trưng của Tango là một điệu nhảy tương đối phức tạp, đòi hỏi người nhảy phải tập trung làm chủ những nhịp điệu nhanh, chậm đan xen và phối hợp các động tác lắc đầu dứt khoát khi nhảy. Tango được nhảy trên nền nhạc có nhịp 4/4, phách mạnh là phách 1 và phách 3. Cách đếm nhạc khi tập luyện điệu nhảy này là quick (nhanh) và slow (chậm) thay cho các nhịp số đếm 1, 2, 3, 4, 5, 6 thường dùng trong các điệu vũ khác.

Mặc dù các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc đã tranh cãi nhiều về nguồn gốc xác thực của Tango, nhưng nhìn chung, người ta thừa nhận điệu nhảy này đã được vay mượn từ nhiều nước - những giai điệu của những nô lệ châu Phi gõ trên trống; điệu milonga của những cánh đồng hoang Nam Mỹ được kết hợp giữa những giai điệu Ấn Độ và điệu nhạc của những người Tây Ban Nha đi khai hoang, ngoài ra, còn có những ảnh hưởng khác trong đó có Latin. Một số người cho rằng từ “Tango” xuất phát từ tiếng Latin ”tangere” (có nghĩa là kề sát nhau). Tuy nhiên, thời gian đầu, Tango luôn bị tầng lớp những người da trắng ở châu Mỹ bài xích và coi đó là "không lành mạnh". Mãi đến năm 1880, một nhạc  sĩ người Uruguay chính thức sáng tác bản nhạc đầu tiên cho vũ điệu Tango thì sức mạnh của nó mới thực sự bùng cháy, khiến hàng triệu con tim rung động và say mê.

Những năm cuối thế kỷ 19, Tango Argentine chịu nhiều ảnh hưởng của các điệu nhảy châu Âu du nhập bởi làn sóng di cư từ châu Âu, châu Mỹ. Người Tây Ban Nha, người Italya, người Bồ Đào Nha... đều góp tay đi tìm cái mới, cái lạ ở vùng đất mới. Họ muốn hòa mình vào điệu nhảy giàu cảm xúc và rất mạnh mẽ của người dân bản xứ... Nó trở thành mode thịnh hành của Pháp và sau đó một thời  gian ngắn là ở Anh, rồi Mỹ. Mỗi nước lại thay đổi nó theo cách của mình. Một nhạc sĩ Mỹ là Astor Piazzola đã mang những yếu tố của nhạc jazz vào trong Tango.

Tango châu Mỹ chưa tồn tại cho tới tận những năm 1913 - 1919, lúc đó Tango được du nhập từ Pháp, nhưng chủ yếu là qua Anh. Nhịp điệu “ bump bump ba - bump bump” được mở đầu với các bộ váy dài kiểu “bumpers” của các quý bà để tránh không quá chạm sát với những bạn nhảy của mình. Loại nhạc này nhanh chóng trở nên phổ biến ở Ý và trở thành quốc nhạc ở Phần Lan. Nhà soạn nhạc Kurt Weill cũng đã viết một số tác phẩm, trong đó nổi tiếng nhất là “Der Matrosensagen” (Bài hát của người thuỷ thủ). Những người Anglos thì đơn giản hóa điệu nhảy. Các thầy giáo người Mỹ dạy điệu foxtrot nhưng lại gọi đó là Tango.

Năm 1918, viết lời cho nhạc Tango có xu hướng phát triển mạnh và từ đó xuất hiện một ngôi sao mà giờ đây vẫn còn nổi danh 5 thập kỷ sau khi ông mất - ca sĩ Carlos Gardel. Hồi ức về lối trình diễn đầy lôi cuốn của ca sĩ điển trai này để lại trong lòng người Argentina sự sùng bái, không giống như những gì mà Elvis Presley đã có được ở Mỹ.

Năm 1930, một cuộc đảo chính quân sự ở Argentina đã đặt dấu chấm hết cho quyền bầu cử của công dân và do đó đã làm câm lặng tiếng nói của mọi người - Tango. Trong thời gian này một ca sĩ nhạc Tango đồng thời cũng là một nhà triết học đã nổi lên - Enrique Santos Discepolo. Ông nổi tiếng với câu nói “Thế kỷ 20 là một đống tro tàn mà không ai có thể phủ nhận…” Tango sống trở lại vào cuối những năm 1930 khi nhân dân Argentina đoạt lại quyền tự do chính trị của mình. Họ kỷ niệm việc thăng tiến địa vị xã hội bằng Tango và điều này trở thành một biểu tượng cho tình đoàn kết và là một phần cuộc sống hàng ngày của họ. Những nhạc sĩ Tango nổi tiếng đi theo những xu hướng mới như Fresedo, De Caro, Pugliese và Anibal Troilo.

Không bao lâu sau, giới trí thức phong lưu giờ đây đã trở nên khác biệt hẳn so với tầng lớp lao động bắt đầu viết lời cho Tango. Vì những ảnh hưởng của họ, Tango trở nên lãng mạn hơn, hoài cổ hơn và là một ký ức ngọt ngào về tuổi thanh xuân trong một xã hội bình dị không bao giờ tồn tại. Khi Juan Peron nắm quyền năm 1946, Tango lại trở nên cực thịnh ở Argentina vì cả ông và phu nhân Evita đều hết lòng ủng hộ loại nhạc này. Nhưng sau cái chết của bà năm 1952, Tango lại rơi ra khỏi địa vị thống trị của nó. Với sự xâm chiếm của nhạc Rock&Roll Mỹ, Tango lại lỡ bước với thời gian…

Âm ỉ, nhen nhúm, rồi bập bùng ngây ngất, tiết tấu độc đáo của Tango, vào thế kỷ 20 từ Buenos Aires đã chinh phục khắp thế giới. Cho dù từng trải bao thăng trầm trong suốt hơn một trăm năm lịch sử, giống như cuộc đời của chủ nhân nó, Tango vẫn phát triển và tỏa lan khắp hành tinh. Phải chăng, sức quyến rũ và cảm hóa của Tango khiến người ta không dễ gì cưỡng lại. Người nhảy như được gửi gắm cả hồn mình vào nhịp bước của Tango như thể nó là người bạn tri kỷ vậy!

Cho tới nay, Argentina và Urugoay vẫn chưa ngừng tranh giành nhau độc quyền về nơi sinh của điệu nhảy này. Cũng vì thế mà việc cả hai nước cùng nhau kiến nghị UNESCO công nhận Tango là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới đã giúp UNESCO có thể đi tới quyết định rõ ràng cuối cùng mà không lo quyết định ấy bị chính trị hóa. Ngày 30 tháng 9 năm 2009, điệu nhảy tango được UNESCO đưa vào Danh sách đại diện Các di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, chứng nhận Argentina và Uruguay là nguồn phát xuất điệu nhảy đẹp và gợi cảm này.

Hoài Thanh

(Tổng Hợp)

In văn bản