Đang tải... Vui lòng chờ...

GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG QUAN NIỆM TU BỔ TÔN TẠO DI TÍCH

GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG QUAN NIỆM TU BỔ TÔN TẠO DI TÍCH

Tác giả Nguyễn Quốc Hùng                             

            Tôi xin được bắt đầu bài viết này bằng một câu chuyện nhỏ về tu bổ tôn tạo di tích. Năm 1996 tôi được Bộ Văn hóa- Thông tin cho sang Phần Lan  thăm một số công trình do các đồng nghiệp ở nước bạn tu bổ tôn tạo. Chuyến đi ấy cũng như nhiều chuyến đi nước ngoài đã cho tôi nhiều điều bổ ích, có những chuyện sau một thời gian người ta có thể quên. Song đối với tôi có một chuyện có lẽ chẳng bao giờ quên được. Đó là khi đi thăm một số công trình, trong đó có nhà thờ ở Porvoo, một thành phố kiến trúc gỗ cách Helsinki khoảng 51 km.Tại Porvoo có một ngôi nhà thờ chất đầy sự kiện lịch sử. Nhà thờ được xây dựng từ lâu, lúc đầu quy mô nhỏ bằng gỗ. Đến thế kỷ XIII, tuy tại đây chỉ có khoảng 200 dân nhưng do làm ăn khá giả người ta đã xây nhà thờ to như hiện thấy. Cách ngày nay khoảng 250 năm nhà thờ bị cháy, một số bộ phận bị hỏng đã được sửa chữa lại. Năm 1809 khi Phần Lan về Nga, Sa Hoàng Alexandre đệ nhất đã cho Phần Lan được hưởng quyền tự trị, Quốc hội của chính quyền Phần Lan đã tổ chức họp đầu tiên tại nhà thờ này với sự có mặt của Alexandre đệ nhất. Khi ấy người ta làm thêm các từng lầu trong nhà thờ để nhân dân đến chứng kiến cuộc họp, lúc đó Helsinki mới chỉ là một vùng đất nhỏ chưa có vai trò gì ở Phần lan. Đến năm 1986 các nhà tu bổ di tích tại Cục bảo tồn di tích thuộc Uỷ ban cổ vật Phần Lan đã tiến hành tu bổ nhà thờ, họ sơn, vẽ lại các hình trang trí trên bục giảng, bàn, ghế, hoa văn trên tường, thay nền gỗ bằng đá lát, đào bốc khoảng một trăm bộ xương các đức cha từng tu ở nhà thờ các đời ra bên ngoài, lắp hệ thống lò sưởi dưới nền nhà. Tại một nhà thờ khác hoàn toàn bằng gỗ sau khi tu bổ xong , người ta tiến hành sơn lại toàn bộ nhà thờ bằng một màu đen, không còn phân biệt được đâu cái gốc và cái mới thay thế . Tôi thấy lạ so với những gì mình đọc thấy trong bản Hiến chương Venice và Công ước bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Khi tôi hỏi các bạn đồng nghiệp Phần Lan đã trả lời rất thẳng thắn rằng những điều tôi nghi ngại rất đúng với tinh thần bảo tồn yếu tố vật liệu gốc được nêu ra trong Hiến chương Venice. Nhưng đó là suy nghĩ của phương Tây dựa trên tư duy của một số người mang nặng tư tưởng áp đặt  lý thuyết “trung tâm châu Âu”. Tại Phần Lan người ta suy nghĩ thông thoáng hơn, lý luận của họ đã được ủng hộ trong Văn kiện Nara 1994 về tính xác thực của di tích. Cơ quan chúng tôi đã được các đồng nghiệp gửi Văn kiện Nara đến ngay sau cuộc họp một thời gian. Thế nhưng, vì nhiều lý do, trong đó có sự ảnh hưởng sâu đậm của bản Hiến chương Venice ,nên tôi  chưa có điều kiện đọc kỹ bản văn kiên đó. Thật là một định kiến kỳ quặc, một bài học đáng để nhớ. Bởi vì chưa đọc nên tôi cũng không tranh luận được gì thêm, chỉ thấy nực cười khi mình đem cái lý thuyềt cũ rích của người phương Tây để nói với họ trong khi ấy họ lại nói với mình những lý thuyết mới phù hợp hơn với mình mà mình chưa để ý.

Chính vì vậy, khi trở về tôi đã đọc bản văn kiện này nhiều lần. Nội dung của văn kiện đã cho thấy một tầm nhìn mới, một sự bừng tỉnh, đấu tranh về lý luận của các nước đang phát triển ở Châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ La tinh. Đối thoại lại với những tư tưởng áp đặt, định kiến của phương Tây. Thể hiện mục tiêu giữ gìn sự đa dạng của bản sắc văn hóa trong đó có bản sắc về bảo tồn di sản văn hóa của mỗi nước trong bối cảnh toàn cầu hóa. Đúng như đường lối của chúng ta “hòa nhập nhưng không hòa tan”.

Trên thực tế hoạt động tu bổ tôn tạo di tích đã và đang diễn ra sôi động khắp nơi trên đất nước ta và được đẩy nhanh hơn từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, nền kinh tế đất nước ngày càng tăng trưởng. Từ năm 1994 Chính phủ thực hiện Chương trình mục tiêu chống xuống cấp và tôn tạo di tích. Hàng ngàn di tích đã được chống xuống cấp và tôn tạo bằng các nguồn vốn đóng góp của nhân dân, đầu tư của chính phủ cộng với sự giúp sức của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước. Nhờ những nỗ lực đó, phần lớn di tích, thắng cảnh ở nước ta đang được vãn hồi, góp phần vào quá trình giữ gìn và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nhiều di tích thắng cảnh lớn ngày một đẹp đẽ, bền vững hơn phục vụ tốt nhu cầu thăm quan, nghiên cứu, học tập của người  trong nước và bè bạn quốc tế.

 Những việc làm đó đã tạo nên sự tin tưởng, phấn khởi và đồng tình ủng hộ trong quảng đại quần chúng nhân dân khắp mọi miền nước. Tuy nhiên cũng có không ít những nỗi băn khoăn trăn trở về công tác tu bổ tôn tạo di tích ở nước ta. Nhiều ý kiến, lúc này, lúc khác tỏ ra chưa vừa lòng với việc tu bổ di tích này, tôn tạo di tích kia. Đôi khi những suy nghĩ đó tạo nên những sự hiểu lầm không đáng có của dư luận và những người ngoài ngành., ảnh hưởng không nhỏ tới nỗ lực chung của toàn xã hội.

 Sở dĩ việc tu bổ tôn tạo di tích ở nước ta còn có nhiều sự tranh cãi là do nhiều nguyên nhân, thiếu thông tin có, thiếu được đào tạo cơ bản có.

Một điều khá quan trọng tạo nên những sự tranh luận không cần thiết nằm ngay trong đội ngũ những người làm công tác bảo tồn di tích và những người quan tâm tới hoạt động này.Trong thời gian qua chúng ta chưa có những người chuyên nghiên cứu về các lý luận bảo tồn, đội ngũ kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng và công nhân thực hiện công tác tu bổ tôn tạo di tích chưa được đào tạo chính quy, chưa có ai có bằng nhà trùng tu di tích (Restorator). Việc nghiên cứu tiếp cận những lý luận nhận thức mới về công tác này cũng chỉ rất lỗ mỗ, nên cơ sở lập luận của mỗi người một khác. Chưa kể đến việc chúng ta công nhận triết học Mác xít, theo chủ thuyết Mác mọi vật điều vận động, phát triển không ngừng. Ngược trở lại chúng ta lại mong muốn một cách không tưởng không dám chấp nhận sự vận động của bản thân các di tích.Chính vì công tác tu bổ tôn tạo di tích ở ta còn mang nặng tính nghiệp dư, nên hầu như ai cũng có thể nói về nó một cách rất dễ dãi, cảm tính

 Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, Sự bảo tồn những di sản của quá khứ được thực hiện tại châu Âu vào thời kỳ phục hưng. Lúc đầu dường như chỉ là việc làm riêng lẻ của từng cá nhân, từng quốc gia, sau đó trở thành nhu cầu chung toàn nhân loại. Nhận thức về giá trị di sản cũng ngày càng được mở rộng, di sản văn do quá khứ để lại ngày càng trở thành sản phẩm không chỉ của riêng một nước mà mang tính nhân loại. Không chỉ dừng ở di sản vật thể (tangible) mà cả di sản phi vật thể( intanggible).

 Trong quá trình phát triển nhận thức đó, xuất hiện nhu cầu cần có những cuộc vận động có tính toàn cầu nhằm đảm bảo bảo tồn tốt những di sản quá khứ để lại. Do đó UNESCO đã triệu tập đại biểu của một số nước có chân trong tổ chức quốc tế rộng lớn này soạn thảo Bản Hiến chương A Ten năm 1931 và Hiến chương Venice năm 1964 xác định những nguyên tắc cơ bản về Bảo tồn và Trùng tu di tích và thắng cảnh.Tuy nhiên những quy định trong bản Hiến chương có tính tổng quát, do đó với những đối tượng cụ thể cần có những quy định thích hợp. Vì vậy xuất hiện các bản Hiến chương với tư cách phụ chương của Hiến chương Venice như: Hiến chương Floren 1981 về Bảo vệ những khu vườn lịch sử, Hiến chương Washington 1987 về bảo tồn những khu phố lịch sử, Hiến chương Laussanne 1989 về bảo vệ và quản lý các di sản khảo cổ học. Hồi đó những người tham gia soạn thảo bản Hiến chương Venice phần lớn là học giả châu Âu ( gồm 23 người là kiến trúc sư và kỹ thuật viên về di tích lịch sử, trong đó chỉ có 1 người Peru, 1 người Mê hi cô, 1 người Tuy ni di , 1 người Úc còn lại là người châu Âu). Năm 1972 Tại kỳ họp thứ 17 của Đại Hội đồng UNESCO tại Pari ngày 16 tháng11 thông qua Bản Công ước về việc bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên thế giới (Nước ta công nhận tham gia bản Công ước này vào tháng 10 năm 1987).  Theo những quy định đó lý thuyết bảo tồn di tích ở một số nước phương Tây được lấy làm chuẩn mực cho việc bảo tồn di tích trên toàn thế giới. Quan niệm của các văn kiện đó “dựa trên sự tôn trọng vật liệu gốc và các tài liệu xác thực” của di tích (1).

Một thời gian dài những quan niệm trong các văn bản nêu trên đã chi phối hầu hết việc tu bổ tôn tạo di tích. Tại những nước đang phát triển vốn là thuộc địa của các nước châu Âu và Mỹ đã mang đậm ảnh hưởng của quan niệm này. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nhà chuyên môn thuộc lĩnh vực tu bổ tôn tạo ở các nước đang phát triển được gửi đi đào tạo tại các nước đã phát triển, hoặc được các chuyên gia từ các nước phát triển tới giúp tu bổ tôn tạo di tích và đào tạo tại chỗ, như trường hợp Inđô nê xia đã đón chuyên gia của hàng chục nước tới giúp tu bổ tôn tạo khu di tích Bô rô bu đua. Các chuyên gia này vừa giúp tu bổ tôn tạo di tích đồng thời đào tạo luôn chuyên gia bảo tồn cho In đô nê xia.

Tuy nhiên việc áp dụng các văn kiện của UNESCO tại một số nước khác ngoài châu Âu, và những di tích không phải bằng chất liệu vô cơ (những công trình hoành tráng bằng đá và hầu như chỉ có một niên đại ) tỏ ra có những điều bất cập và phiến diện. Quan niệm trên không hàm chứa nổi những di tích có lịch sử phát triển lâu dài, phức tạp, đa dạng như trường hợp thành phố Toledo của Tây Ban Nha. Ở di tích này không chỉ phản ánh tất cả các nền văn hóa châu Âu từ thời La mã đến thời trung cổ mà còn bao gồm cả các kiệt tác kiến trúc thực sự của người Moor. Hay thành phố cuzco ở Peru cũng vậy. Trường hợp thành phố Vac- So- Vi của Ba Lan được khôi phục lại từ năm 1945 đến 1949 sau khi đã bị chiến tranh phá huỷ gần như hoàn toàn vào tháng tám năm 1944 đã làm cho người ta nghi ngờ tính nguyên gốc về vật liệu của di tích, do đó người ta đã phải nghĩ đến tính nguyên gốc của chức năng, hình thức hoặc truyền thông của nó. Chính vì vậy thành phố này vẫn được ghi vào Danh mục di sản văn hóa thế giới.  Đối với đảo Anthony một di sản thế giới khác ở Canađa những yếu tố chính của di sản này là các kiến trúc bằng gỗ, nhà ở và các cột Tôtem khác nhau của những người thợ săn và dân chài Haida, những di tích này đã bị huỷ hoại nặng theo thời gian. Những người thổ dân đã không có những biện pháp để ngăn chặn sự huỷ hoại của thiên nhiên, các thế hệ trẻ nhớ đến truyền thống cũ và khắc những tô tem mới. Như vậy tính xác thực của di sản được “ nhấn mạnh vào các tiêu chí văn hóa và truyền thống hơn là tiêu chí vật liệu”(2).

Những điều thấy ở trên cũng xảy ra tương tự ở các nước châu Á và  Đông Nam Á, bởi nếu cứ áp dụng những lý thuyết dựa trên thực tiễn của châu Âu trong bối cảnh cụ thể của từng nền văn hóa, không thể đáp ứng được những đòi hỏi thực tế và tinh thần truyền thống của người phương đông đối với các di tích của người xưa để lại.

Trên thực tế các quan chức làm công tác bảo tồn của Nhật Bản sau khi quyết định ký vào bản Công ước bảo vệ di sản thế giới đã rất lo ngại về sự chấp nhận mang tính toàn cầu. “Người Nhật e rằng các thông lệ của họ tháo dỡ định kỳ các công trình kiến trúc bằng gỗ quan trọng sẽ được xem là không có tính xác thực nếu xét định từ phạm vi một khuôn khổ phương Tây. Trong thực tế sự lo ngại của họ là chính đáng, những mức độ hiểu biết về di sản Nhật Bản và bảo tồn của họ ở bên ngoài Nhật Bản là tương đối Thấp” (3)Tình hình này cũng đã xảy ra tại Trung Quốc , Hàn quốc và các nước Đông Nam Á. Đối với Nhật bản những quy định từ thế kỷ thứ VII về việc cứ hai mươi năm một lần phục dựng lại khu miếu thờ  Ise một lần giống như vòng đời hai mươi năm của thần linh (4).

Để tránh phụ thuộc hoàn toàn vào những quy định của UNESCO các nước Đông Nam Á đã cùng nhau trao đổi để đưa ra những chuẩn mực riêng nhằm vận dụng những quy định của UNESCO vào thực tiễn của khu vực có khí hậu nhiệt đới và có những đặc điểm chung về lịch sử, phong tục tập quán.(5)

Xuất phát từ những thực tế đa dạng đó Uỷ ban di sản thế giới đã vấp phải nhiều khó khăn khi kiểm tra tính xác thực của di tích dựa trên những qui định tại các văn bản Hiến chương Venice cũng như Công ước Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới trên phạm vi toàn cầu.

Năm 1994, với sự tài trợ của một số cơ quan tổ chức ở Nhật bản và Trung tâm di sản thế giới thuộc UNESCO, ICCROM và ICOMOS , 45 chuyên gia đầu ngành tronh lĩnh vực bảo tồn di sản của các tổ chức quốc tế và 25 quốc gia thành viên đại diện cho tất cả các châu lục trên thế giới đã họp tại Nara, Nhật bản để trao đổi về  tính xác thực của di tích. Các chuyên gia tham gia hội thảo đã đem đến hội nghị những kinh nghiệm, lý luận thực tế phong phú trong công việc bảo tồn di tích ở nước mình, những quan điểm có vẻ đi rất xa so với những quan điểm được quy định cách đó hơn hai, ba chục năm. Tinh thần của hội thảo hầu như thống nhất không nên chỉ lấy “châu Âu làm trung tâm”. Có những tham luận còn nghi ngờ cả tầm quan trọng của tính xác thực mà UNESCO đã đưa ra như Ông Pisit charoenvongsa, một học giả Thái lan , hiện đang giữ chức Chủ tịch Spafa đặt vấn đề “ Tính nguyên gốc liệu có thực sự quan trọng lắm không” Ông này đã nêu lên tình hình đặc điểm, tinh thần của người Thái Lan và cho rằng “ Những bức tượng phật không hoàn chỉnh hoặc những tượng bán thân mất đầu trưng bày trong các bảo tàng về mặt khái niệm thì “ xác thực “ đối với con mắt người phương Tây- trong phong cách phô diễn của họ-những đối với người dân Thái thì đó là một thứ để tôn thờ chứ không phải là một “hiện vật bảo tàng”, cái mà đòi hỏi cần phải được hoàn thiện về mặt vật chất càng sớm càng tốt. Vậy thì khái niệm về tính xác thực đứng về phía nào- khái niệm về nghệ thuật mang tính tinh thần đối với người Thái hay khái niệm về nghệ thuật mang tính tượng trưng đối với người phương Tây?”(6). Ông David Lowenthal  lại nói đến sự thay đổi liên tục của tính xác thực qua các thời đại, các khu vực trên thế giới và sự đa dạng linh hoạt dưới cái nhìn triết học (7).Kết quả của cuộc Hội thảo rộng rãi cởi mở này được quy tụ trong bản Văn kiện Nara về tính xác thực do tất cả 45 thành viên tham gia hội thảo cùng trao đổi thống nhất. Bản Văn kiện Na ra về tính xác thực  gồm 13 điều ở đây xin trích các điều 11, 112, và điều 13 , cụ thể như sau:

“Điều 11. Tất cả những sự đánh giá về các giá trị thuộc tính của di sản cũng như độ tin cậy của những nguồn thông tin có liên quan có thể khác nhau giữa các nền văn hóa, và thậm chí trong một nền văn hóa. Như vậy không thể đánh giá giá trị và tính xác thực dựa trên những tiêu chí đã ấn định. Mà ngược lại sự trân trọng thỏa đáng đối với tất cả các nền văn hóa đòi hỏi rằng di sản văn hóa phải được xem xét và đánh giá trong bối cảnh mà nó chi phối.

12. Do đó điều tối quan trọng và khẩn cấp là, trong phạm vi mỗi nền văn hóa, cần phải công nhận bản chất đặc thù của các giá trị di sản của nó và độ tin cậy và tính trung thực của các nguồn thông tin liên quan.

13. Tuỳ theo bản chất của di sản văn hóa, bối cảnh văn hóa và sự vận động của nó qua thời gian mà những sự kiểm định tính nguyên gốc có thể được gắn với lượng giá trị của một sự đa dạng lớn các nguồn thông tin. Các nguồn thông tin này có thể bao gồm các mặt như kiểu dáng và thiết kế, vật liệu và chất liệu, chức năng và tác dụng, truyền thông và kỹ thuật, địa điểm và cảnh quan, tinh thần và tình cảm, và các yếu tố bên trong và bên ngoài khác. Việc sử dụng các nguồn thông tin này cho phép thảo ra tỉ mỉ các tầm cỡ về tính nghệ thuật đặc trưng, tính lịch sử , tính xã hội và khoa học của di sản văn hóa đang được thẩm định.” (8) Như vậy theo văn kiện Nara tính xác thực của di tích không chỉ dừng ở bốn yếu tố mang tính vật thể, vật liệu, kỹ thuật, thiết kế, địa điểm cảnh quan như được hiểu trước đây mà còn phải tính đến các yếu tố  phi vật thể ,phù hợp với thực tế hơn như các yếu tố chức năng và tác dụng, truyền thông và kỹ thuật, tinh thần và tình cảm .v.v. Trong bản phụ lục đính kèm văn kiện Nara do ngài Herb Stovel tổng thư ký ICOMOS  đề nghị có nêu rõ “- Sự trân trọng đối với tính đa dạng của di sản và văn hóa đòi hỏi những nỗ lực có ý thức nhằm tránh áp đặt những công thức máy móc hoặc những thủ tục đã tiêu chuẩn hóa trong việc định ra hoặc xác định tính xác thực của những công trình kỷ niệm hoặc những di tích cụ thể nào đó.Và-Những nỗ lực nhằm cập nhật những đánh giá về tính xác thực theo quan điểm thay đổi giá trị và hoàn cảnh”  (9). 

Tại Việt Nam công tác tu bổ tôn tạo các công trình kiến trúc cổ đã xuất hiện từ lâu. Qua các tài liệu chữ viết trên giấy vở và văn bia, các cấu kiện tại các di tích ta thấy những công trình kiến trúc xưa được tu bổ tôn tạo dưới nhiều cấp độ. Cái được sơ tu, cái tiểu tu, trung tu,trọng tu và đại tu, nhiều công trình được đời sau trùng tu mở mang ngày càng rộng lớn, khang trang. Tiêu biểu và thời hậu Lê rất nhiều cung/phi tần của chúa Trịnh đã đóng góp tiền của, ruộng đất cho việc trùng tu, mở mang các ngôi chùa lớn như chùa Bút Tháp ( Bắc Ninh), chùa Đậu, chùa Mía (Hà Tây). Chùa Liên Phái (Hà Nội)... việc tu bổ tôn tạo các công trình kiến trúc cổ theo truyền thống xưa để lại, cơ bản dựa trên nguồn kinh phí có được. Nhiều thì  trùng tu mở mang, tô thêm tượng, đúc thêm chuông, ít thì tu sửa, sửa chữa nhỏ. Hiện nay đến một số di tích ta còn thấy dấu vết kiến trúc của nhiều thời khác nhau, có cả vết tích của thời Lý, thời Trần xen lẫn các kiến trúc thời Lê, Nguyễn.

 Thực tiễn đó cho thấy người xưa khi trùng tu các kiến trúc cổ đã cố gắng gìn giữ những gì có thể giữ được trong kiến trúc trước đó nhưng không câu nệ hễ có điều kiện là mở mang bởi vì các công trình đó không chỉ là di tích đơn thuần mà còn là nơi tôn thờ các vị thần, phật. Di tích đang còn hoạt động.

Từ khi thực dân Pháp đến Việt Nam họ đã áp đặt những quan niệm về việc bảo vệ, nghiên cứu , tu bổ tôn tạo di tích của chính quốc vào nước ta. Sau khi giành được độc lập (1954). Nhà nước ta đã tổ chức cho hàng loạt học sinh sinh viên đi đào tạo tại nước ngoài, chủ yếu là các nước Đông Âu, việc đào tạo các cán bộ ngành Bảo tồn bảo tàng cũng không ngoài thông lệ đó. Những người này không thể không chịu ảnh hưởng ít nhiều của các học thuyết phương Tây như đã nói ở trên.

Do đất nước ta chịu tác động khốc liệt của chiến tranh, khí hậu, thiên nhiên khắc nghiệt gây cho phần lớn di tích bị huỷ hoại do bom đạn, tiêu thổ, nhiều di tích bị xuống cấp do sử dụng sai mục đích và mưa, bão, lụt lội, côn trùng cây cỏ phá hoại. Nên sau khi thống nhất đất nước, non sông thu về một mối nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực chống xuống cấp, tu bổ tôn tạo di tích.

Nếu như ở Trung Quốc có hơn 350.000 di tích bất động sản được nhà nước xác định mà chỉ có khoảng vài nghìn công nhân (kể cả kỹ thuật viên) trực tiếp tham gia vào công việc bảo tồn(10). Thì tại Việt Nam với hơn 3400 di tích thắng cảnh được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận, khoảng ngần ấy di tích được các địa phương ra quyết định bảo vệ, số lượng người tham gia trực tiếp vào công tác tu bổ di tích có tính chuyên nghiệp còn ít hơn nhiều. Nên không thể đáp ứng nổi nhu cầu tu bổ tôn tạo chống xuống cấp di tích ở khắp các địa phương. Trước tình hình đó ở nhiều nơi nhân dân đã tự động đứng ra vận động tu bổ tôn tạo di tích. Nhiều địa phương đã mời các cơ quan tư vấn thiết kế vốn không chuyên về bảo tồn di tích xây dựng phương án thiết kế tu bổ tôn tạo di tích. Tại những nơi này nhân dân và địa phương thực hiện việc tu bổ tôn tạo di tích chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống do người xưa truyền lại. Tức tuỳ theo số kinh phí có được để sửa chữa, mở mang, hoặc xây mới làm cho bộ mặt di tích trở nên khang trang. Đặc biệt là tại những di tích tín ngưỡng tôn giáo, do những nơi này không chỉ là di tích dưới dạng “hiện vật bảo tàng” mà còn là nơi linh thiêng, nhân dân địa phương vẫn tới thờ cúng thần, phật. Trong mỗi làng thôn Việt Nam giờ đây vẫn còn rất nhiều hiệp thợ nắm vững kỹ thuật truyền thống xây dựng và tô tượng đúc chuông. Chính họ   tham gia tu sửa di tích tại quê nhà. Hơn thế nữa các di tích tôn giáo tín ngưỡng ở ta hầu hết điều trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa trong quá khứ ngay cả các tháp Chàm trong khu vực Mỹ Sơn (Quảng Nam) cũng đã qua nhiều lần tu bổ trong quá khứ. Tình hình đó cho thấy nếu đòi hỏi phải giữ gìn tính xác thực của một thời kỳ nào đó của di tích là không thể thực hiện được, mà cần phải tôn trọng quá trình thay đổi của di tích. Một điều đáng quan tâm nữa là các di tích này vẫn còn là nơi thờ cúng vì vậy một số nơi bị mất tượng phật người ta nghĩ ngay đến việc làm tượng mới thay vào ( chùa Tây Phương- Hà Tây), mất đầu tượng người ta cũng không thể không làm đầu tượng mới (chùa Ngô Xá- Nam Định) . Người ta không thể cầu khấn ở nơi không có tượng hoặc trước pho tuợng mất đầu. Tượng Bà tại tháp Ponagar -Nha trang bị mất đầu, lập tức người ta làm lại cho tượng một cái đầu mới. Người Việt chúng ta không có truyền thống thờ tượng bán thân, hoặc chiêm bái tượng khiếm khuyết, việc này chỉ có từ khi Tây vào nước ta. Rõ ràng đối với các di tích này nếu đòi hỏi tính xác thực của di tích về vật liệu thì rất khó thực hiện mà phải quan tâm đến tính xác thực về chức năng và tác dụng, truyền thông và kỹ thuật, tinh thần và tình cảm của di tích như được đúc kết  tại văn kiện Nara. Đối với các loại hình di tích lịch sử, cách mạng ở việc tu bổ tôn tạo không thể nào chỉ dựa trên tinh thần của bản Hiến chương Venice và Bản Công ước Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên. Tại những nơi này do đặc điểm chỉ là những công trình tạm trong rừng, những địa điểm diễn ra các sự kiện lịch sử nên việc xây mới các công trình tưởng niệm như tượng đài, tranh hoành tráng ( tương tự người xưa xây đền miếu để thờ) không thể tránh khỏi. Trên thực tế chúng ta đã làm rất nhiều. Những công trình bằng kiến trúc gỗ dù được dân địa phương đứng ra tu sửa hay các cơ quan chuyên môn nhận làm vẫn phải thực hiện việc hạ giải, tháo dỡ để kiểm tra chất lượng các cấu kiện, loại bỏ những bộ phận hư hỏng nặng, sử lý tăng tuổi thọ cho các cấu kiện còn tốt bằng cách ngâm tẩm hóa chất, gia cố các bộ phận chịu lực. Điều này cũng đã xảy ra tại Nhật Bản, Trung Quốc (11) những nước có nhiều kiến trúc bằng gỗ. Hành động này đã gây nên nhiều cuộc tranh cãi vì làm như vậy có vẻ như kiểu xây dựng lại không đảm bảo tính xác thực của di tích. Điều này đã được Ông  Knut Larsen  trong  tác phẩm “Bảo vệ giữ gìn kiến trúc ở Nhật Bản” cho biết việc can thiệp này vẫn phù hợp với tinh thần bản Hiến chương Venice nếu việc tháo dỡ thận trọng các cấu kiện được ghi chép đánh số rõ ràng, cụ thể. Ông này còn viết “ Tuy nhiên cần có những thủ tục phức tạp  để xin phép thay đổi hiện trạng của một công trình kiến trúc lịch sử ở Nhật bản là hoàn toàn tuân thủ điều 11 của Hiến chương Venice”(12).

Chúng ta cũng đã thực hiện việc cải tạo lối đi và hệ thống ánh sáng trong một số hang động của Vịnh Ha Long. Khu Thái học trong di tích văn miếu quốc tử giám sau nhiều năm suy nghĩ đã được cho phép xây dựng những công trình mới, phù hợp với kiến trúc truyền thống và đảm bảo cảnh quan chung của di tích.

Như vậy với Văn kiện Nara các chuyên gia hàng đầu trên thế giới về bảo tồn di tích đã tiến thêm một bước quan trọng trong nhận thức, họ tỏ ra hiểu nhau hơn và thực tế hơn. Bản văn kiện giống như một sự tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn, không một ai còn muốn chấp nhận sự áp đặt những tiêu chuẩn đã định sẵn cho việc công nhận tính xác thực của một di tích.

Như vậy từ khi thuật ngữ  tính xác thực xuất hiện trong bản Hiến chương Venice năm 1964 , sau đó được đưa vào Công ước bảo vệ di sản Văn hóa và thiên nhiên thế giới. Đến năm 1979  Uỷ ban di sản thế giới đã nêu lên tính xác thực của di tích về thiết kế, chất liệu, tay nghề và cảnh quan. Đến văn kiện Nara khái niệm này đã được hiểu rộng ra bao gồm kiểu dáng và thiết kế, vật liệu và chất liệu, chức năng và tác dụng, truyền thông và kỹ thuật, địa điểm và cảnh quan, tinh thần và tình cảm và các yếu tố bên ngoài và bên trong khác.  “ Văn kiện Nara phản ánh một thực tế là học thuyết về bảo tồn mang tính quốc tế đã chuyển từ một phương pháp tiếp cận giải quyết lấy châu Âu làm trung tâm đến một luận điểm hậu hiện đại được đặc trưng bởi sự công nhận thuyết tương đối về văn hóa. Điều này không có nghĩa là sự tranh luận mang tính quốc tế về tính xác thực của di sản văn hóa không có ý nghĩa gì nữa sau khi có văn kiện Nara. Trong tình huống này các chuyên gia bảo tồn buộc phải làm rõ cách dùng khái niệm tính xác thực trong phạm vi đất nước và lĩnh vực văn  hóa của mình” ( 13).

Theo tinh thần trên cánh cửa cho các nhà bảo tồn di tích ở ngoài châu Âu ( Thậm chí ở cả châu Âu nữa) đã được mở rộng hơn. Tại Việt Nam cuộc sống tâm linh của người phương đông không cho phép chúng ta chấp nhận những gì của nguời xưa để lại bị tàn tạ, không được  khôi phục mở mang, làm như thế là có tội với quá khứ. Các tộc người sống trên đất nước ta chủ yếu tư duy trực quan, tình cảm, ít duy lý, tư biện nên không nhẫn tâm nhìn những di tích của cha ông bị đổ nát mà không được phục hồi hoàn chỉnh. Càng không thể nhìn những bức tượng thần phật mất đầu, mất tay mà không được khôi phục (giống như ở Thái lan). Các di tích tôn giáo , tín ngưỡng của người xưa để lại hầu hết vẫn đang hoạt động đang cùng sống với người đương đại. Hơn nữa các kiến trúc người xưa xây dựng hầu hết không có hoặc không để lại bản vẽ,được sửa chữa, tu bổ, mở mang nhiều lần. Khí hậu nước ta thuộc loại nhiệt đới gió mùa, độ ẩm cao. Mưa gió, lụt lội làm cho di tích xuống cấp nhanh chóng, nếu không có những giải pháp tu bổ tôn tạo triệt để sẽ không gìn giữ di tích được lâu. Vì những lẽ đó những người làm công bảo tồn cần lựa chọn những phương án tu bổ tôn tạo cụ thể cho từng di tích. Không nên chỉ theo tinh thần châu Âu, nhưng cũng không được cẩu thả tuỳ tiện.

Theo tinh thần văn kiện Nara công việc bảo tồn di tích ở nước ta cần lưu ý hơn đến tính xác thực của các yếu tố khác như tính xác thực về chức năng và các yếu tố phi vật thể của di tích, chứ không chỉ tập trung chú ý vào tính xác thực của vật liệu. Quan niệm mở rộng hơn đòi hỏi người làm công tác tu bổ tôn tạo di tích trang bị cho mình những kiến thức sâu hơn rộng hơn. Kết hợp tốt hơn những kinh nghiệm truyền thống với những quy định chặt chẽ về tính xác thực của di tích để tìm ra phương án tối ưu cho công tác tu bổ tôn tạo di tích. Trên thực tế không thể có hoặc có rất ít di tích hội đủ các yếu tố xác thực được nêu ra ở văn kiện Nara, do vậy cần lựa chọn ưu tiên những yếu tố nào của tính xác thực để thực hiện tu bổ tôn tạo di tích tuỳ thuộc vào những người làm công tác tu bổ tôn tạo di tích.

 Để kết thúc bài viết này tôi xin trích ý kiến của Natalia Dushkina khi bàn về tính  xác thực: “Nhiệm vụ đặt ra không phải chỉ là sự kiểm định tính xác thực về kiểu dáng, chức năng,v.v. và làm rõ “mức độ” của nó trong một di tích, mà còn là xác lập: a) sự ưu tiên giữa chúng; b) tìm kiếm một sự cân bằng hợp lý giữa các thành phần mang giá trị  tính xác thực .

Loại nhiệm vụ như vật cần phải được đặt trong từng trường hợp cụ thể. Sự quyết định cần phải có kiến thức và hiểu biết về văn hóa của một dân tộc và tính đặc thù của nó. Quá trình này khó mà có thể “đo” được . Cần phải có khả năng trực giác chuyên môn và tính linh hoạt, trình độ văn hóa cao để chống lại sự giáo điều về phương pháp” (14).

 

______________________________________

Chú thích:                                                                                                                                                                                                                                                                                  

1.Hiến chương Venice.1964, điều 9: “ Its aim is to preserve and reveal the aesthetic and historic value of the monuments and is base on respect for original material and authentic documents. It must stop at the point where conjection begin”.

-Văn bản chỉ đạo hành động thực hiện Công ước di sản thế giới của Uỷ ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thuộc UNESCO điểm b, điều 21,mục C hướng dẫn thêm về tính xác thực “authenticity in design, materials, workmanship or setting”.Đồng thời chỉ rõ rằng việc xây dựng lại chỉ được thừa nhận nếu được tiến hành dựa trên nguồn tài liệu đầy đủ và chi tiết về nguồn gốc và không phỏng đoán thêm.

2.Berd von Droste  và  Ulf Bertilsson Tính xác thực và di sản thế giới Văn kiện NaRa về giữ gìn tính nguyên gốc của di tích . Tài liệu dịch của Cục Bảo tồn bảo tàng tr20.)

3. Herb Stovel.  Làm việc nhằm đạt tới văn kiện NaRa. Sdd ,tr11.

4.Nobuo Ito. Tính xác thực vốn đã sẵn có trong di sản văn hóa ở châuÁ và Nhật Bản). Sdd,tr48.

5. Từ ngày 12 đến 19 tháng12 năm 1995 đã diễn ra Hội nghị Soạn thảo Hướng dẫn về các thủ tục và kỹ thuật thực địa khảo cổ học tại Bô rô bu đua- In đô nê xia của các chuyên gia ASEAN, từ ngày 15 đến 25 tháng 6 năm 1999 các chuyên gia ASEAN lại cùng nhau họp tại Bô Rô Bu Đua In đô nê xi a soạn thảo Những chuẩn mực về bảo tồn và trùng tu khảo cổ học)  . Tháng7/2000 các nước ASEAN đã cùng ra một tuyên bố chung về bảo vệ di sản văn hóa trong khu vực. 

6.Pisit Charoenvongsa .Tính xác thực: liệu có thực sự quan trọng lắm không? Sdd ,tr191

7. David Lowenthal.Thay đổi các tiêu chí về tính xác thực. Sdd,tr89-104

8. Văn kiện Na ra về tính xác thực.Sdd,Tr6

9. Như trên .Sdd,tr7

10.Guo Zhan Nét đặc thù của Tính xác thực trong bảo tồn tài sản văn hóa ở Trung Quốc . Sdd tr214)

11.12.Berd von Droste - Ulf Bertilsson. Tính xác thực và di sản thế giới .Sdd. tr22),

13.Knut Einar Larsen. Điều phối viên khoa học của hội nghị Nara Lời giới thiệu.Sdd tr3)

14. Natalia Dushkina. Tính xác thực: tiến tới hệ sinh thái văn hóa. Sdd. Tr206             

In văn bản