Đang tải... Vui lòng chờ...

Chùa mía làng cổ Đường Lâm

          Đường Lâm là tên xã thuộc thị xã Sơn Tây, có tới 7 thôn, song chùa ở thôn Đông Sàng lại được dân trong vùng gọi là chùa Mía với tên chữ là "Sùng Nghiêm Tự", chỉ cách thị xã Sơn Tây chừng 5 Km trên đường đi huyện lỵ Ba Vì.

          Đây là vùng đất cổ nhìn rộng ra một chút có sông Hồng ở phía đông và núi Ba Vì ở phía tây bắc, còn tại chỗ gò đồi sát, ngòi lạch vòng vèo, dân tin ở nơi địa linh và đã sản sinh nhiều nhân tài cho đất nước.

          Chùa Mía xây dựng trên quả đồi thấp bằng phẳng rộng chừng 1 ha, hướng nam, nhìn xuống chợ Mía ở ngày trước chùa nên gọi là chợ chùa hay chợ Tam Bảo. Chùa Mía vốn có từ xa xưa, nhưng chỉ là ngôi chùa nhỏ, đến đầu thế kỉ XVII được dựng lại, mở rộng quy mô nhờ  sự công đức của bà chúa Mía - Nguyễn Thị Ngọc Dao (nhưng nhân dân phải đọc chệch thành Dong hay Dêu) vợ yêu của chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng. Tấm bia Sùng Nghiêm tự bi khắc năm Đức Long 6 (1634) cho biết: Vào năm 1632 đã dỡ bỏ chùa cũ, xây dựng chùa mới khang trang, gồm toà Thượng điện, Thiêu hương, Tiền đường, Thượng điện và hành lang hai bên, cả thảy 27 gian. Một số bia và tài liệu cho biết thêm: Năm 1730 xây thêm toà Tiền đường nữa 7 gian 2 chái ở phía trước Tiền đường cũ, năm 1843 xây Tam quan, năm 1853 sửa chữa lớn toà Tiền đường, năm 1916 mở rộng hành lang mỗi bên ra 7 gian, năm 1928 mở rộng và tôn cao Thượng điện, năm 1963 tu sửa nhỏ những chỗ bị hư hỏng, năm 1993 tu bổ, tôn tạo hoàn toàn nhà Thượng điện, nhưng thêm cây tháp Cửu phẩm liên hoa ở góc vườn đằng trước. Ngoài ra từ cuối thế kỉ trước cho đến nay còn xây thêm nhiều công trình phụ như nhà thờ Tổ, nhà khách, tăng phòng và các kiến trúc phục vụ sinh hoạt đời thường khác.

          Khuôn viên chùa được mở đầu bằng Tam quan 3 gian 2 tầng mái, tầng trên là gác chuông, to vừa dàn ngang vừa nâng cao, thông thoáng, trang nghiêm nhưng mộc mạc. Tuy nhiên, hai gian bên bị dựng bia chắn ngang và có hàng rào chắn song nên việc đi lại thường qua cổng phụ xây gạch ở phía bên trái. Qua cổng là sân ngoài cũng là vườn chùa trồng nhiều cây lưu niên, trong đó có cây đa cổ thụ ở góc ngoài của vườn đã vài trăm tuổi, xoè rộng tán và vươn cao đánh dấu đất phật và cũng tạo sự tương phản với những kiến trúc cổ để cùng tôn lên. Từ vườn chùa theo đường lát gạch qua cửa Bát nhã vào sân chùa với một vườn cảnh gợi một thế giới thần tiên thanh khiết.

          Từ sân qua hệ thống bậc gạch cao chừng 1 m sẽ bước vào khu Tam bảo với bình đồ chữ nhất ở trước chữ quốc, xum xê trải rộng mà không gian nâng cao, tạo một không khí ấm cúng, thần phật cũng quanh đâu đây.

          Hiếm chùa có hai toà Tiền đường, đây là một biệt lệ, nó đổi mới công thức cũ song không xa lạ. Toà Thượng điện ngoài là để mở rộng chỗ cho các Phật tử ngồi hành lễ vọng vào khu Thượng điện ở phía trong, ở toà này chỉ có điện Mẫu ở hồi bên trái đối diện với tấm bia dựng năm Đức Long ở hồi bên phải, là một tác phẩm lịch sử - nghệ thuật có nhiều giá trị cụ thể cả ở bài minh văn và hình trạm trang trí. Từ toà Tiền đường trong trở vào có bình diện theo kiểu "nội công ngoại quốc" quen thuộc thường gặp ở nhiều chùa dựng ở nửa đầu thế kỉ XVII, mở ra một không gian rộng để chứa một không gian tượng phật đông đảo, đạt kỷ lục tới gần 300 pho tượng. Trừ phần thượng điện mới tôn tạo, tu bổ nhưng vẫn ở trên nền cao vượt hẳn lên, các toà khác vẫn giữu nếp kiến trúc cổ, kết cấu đơn giản, dùng lại ít mảng có phong cách Mạc, lại cả một số mảng làm thêm thuộc những lần tu sửa ở thời Nguyễn, tất cả đều thấp, bình dị, ở Hậu đường có những chiếc cột to quá cỡ bằng gỗ mít, không hài hoà với các phần kiến trúc liên quan, song càng khẳng định sự cổ kính của công trình.

          Trong số gần 300 tượng, các tượng gỗ tập trung trên toà Thượng điện và toà Thiêu hương, trong đó nổi lên các tượng Tam thế, A di da, Quan âm chuẩn đề, Quan âm thiên thủ thiên nhãn với vẻ đẹp óng chuốt, quý phái mang phong cách tượng Lê Trung Hưng thế kỉ XVII - XVIII. Trong điêu khắc tượng tròn, ở chùa Mía trội hơn nhiều chùa lại chính là loại tượng đắp đất rồi sơn thếp, là thành tựu mới của nghệ thuật tượng thời Nguyễn. Toà Tiền đường có hai pho Khuyến Thiện, Trừng Ác cao 2,6 m, đều cưỡi trên mình sư tử ngoài ra còn thêm bệ, đầu gần sát mái nhà. Vẫn toà Tiền đường giáp tường hồi mồi bên có 4 pho Kim cương cao 1,82 m đều trong thế võ, đứng vặn người cho bắp nổi cuộn, một tay thấp, một tay cao, cương quyết mà thật trong sáng. Bộ Thập bát La hán bày ở hai bên hành lang, dàn ra theo nhịp điệu êm ả, có vẻ đẹp hồn nhiên chân chất của dân gian. Tượng Di Lặc ở chính điện còn tượng Tuyết Sơn ở sau Hậu đường do nhấn mạnh sự đối lập hình thể mà cũng đối lập cả thể chất vô tư với đau đáu cũng rất Việt Nam. Tượng Quan âm Thị Kính thực sự là người mẹ Việt Nam hiền thục, duyên dáng và điềm tĩnh. Tượng Phật nhật niết bàn nằm duỗi thảnh thơi là sự giác ngộ tột cùng và sự trở về thanh thản… Các cảnh động Vân Trừu, động Linh Ngưu với vô số tượng lớn nhỏ đều rất sinh động đã bầy ra như một bộ sử Phật giáo bằng hiện vật có sức truyền cảm mạnh nhất.

          Hệ thống tượng Mẫu ở chùa Mía, ngoài bộ tượng tam toà là biểu trưng chung, còn có Mẫu Việt Nam đã huyền thoại hoá là công chùa Liễu Hạnh đầy quyền năng, đặc biệt còn tôn vinh bà chúa Mía thành vị Thánh đồng nhất với Mẫu Địa có các Mẫu Thượng Thiên và Mầu Thượng Ngàn ở  hai bên.

          Chùa Mía không có lễ hội riêng, ngoài lễ vào các ngày Sóc-vọng hàng tháng, thì các lễ Tam nguyên và lễ Phật đản, lễ Phật thành đạo vào ngày rằm các tháng riêng - tư - bảy - mười - chạp đều thu hút phật tử cả vùng. Chùa Mía có nguồn gốc cung đình, song ngay từ đầu đã đậm chất chân quê, không chỉ gắn với làng mà còn gắn với cả vùng.

 

 

In văn bản